Đề cương Thông báo nhanh kết quả Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII
I- TỔNG KẾT 10 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 6 KHOÁ XI VỀ
TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT
ĐAI TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH TOÀN DIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã xem xét, thảo luận Tờ trình và Đề án của Bộ Chính trị; thống nhất ban hành Nghị quyết
với tên gọi: "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính
sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước
ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao" với những nội dung cơ
bản như sau:
1. Tình hình và nguyên nhân
Ban Chấp hành
Trung ương Đảng thống nhất đánh giá, sau
gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XI, chính
sách, pháp luật về đất đai đã có nhiều đổi mới, từng bước tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý và sử dụng đất hợp lý, tiết
kiệm và hiệu quả hơn; tạo ra những động lực mạnh mẽ cho phát triển đô thị, tăng đáng kể
nguồn thu cho ngân sách, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước. Quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được thực hiện theo hướng tiếp cận tổng hợp, liên ngành và trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý, phân bổ và sử dụng
đất đai. Chính sách giao đất, cho thuê đất từng bước đáp
ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội; đời sống và sinh kế của người có đất bị thu hồi được bảo đảm tốt hơn. Quyền
và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất được bảo đảm và
phát huy, nhất là trong sử dụng đất nông nghiệp. Công tác thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai; giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và vi phạm pháp
luật về đất đai có nhiều chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế. Một số nội
dung của Nghị quyết chưa được thể chế hoá hoặc thể chế hoá chưa đầy đủ; Luật
Đất đai và một số luật có liên quan còn có sự chồng chéo, chưa thống nhất. Hệ thống
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và các quy hoạch có sử dụng đất chưa bảo đảm tính tổng thể, hệ thống và đồng bộ. Công tác giao
đất, cho thuê đất ở một số nơi còn nhiều bất cập, sai phạm. Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở một số địa phương còn chậm, chưa đúng Nghị quyết và với các
quy định pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền
lợi, đời sống và sinh kế của người có đất bị thu hồi, gây thất thoát ngân sách nhà nước. Cải cách hành chính về đất đai còn chậm và chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn. Hệ thống tổ chức, bộ máy
quản lý nhà nước về đất đai chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, thiếu ổn định và chưa được đầu tư tăng cường; năng lực quản lý nhà nước về đất đai chưa đáp ứng được
yêu cầu. Tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo và vi phạm pháp luật về đất đai còn diễn biến phức tạp, đơn, thư tố cáo về
đất đai có xu hướng tăng; nhiều vụ việc chậm được xử lý, giải quyết, gây bức
xúc xã hội.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng
định, những hạn chế nêu trên có nguyên nhân khách
quan và chủ quan nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trong đó do chưa có sự thống nhất cao về nhận thức đối với một số vấn
đề liên quan đến quản lý và sử dụng đất; nhận thức về chính sách, pháp luật về đất đai có
nơi, có lúc chưa đúng, chưa đầy đủ. Ý thức chấp hành pháp luật về đất đai của một bộ phận cán
bộ và người dân còn hạn chế. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai còn chậm, chưa đầy đủ, chưa nghiêm, còn có
sai phạm. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo về đất đai có lúc, có nơi còn chưa kịp thời, dứt điểm và chưa đúng pháp
luật.
2. Quan điểm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất các quan điểm sau:
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở
hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giao
đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính
sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất
tạo ra. Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục
vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội
theo luật định, bảo đảm công bằng, công khai, minh bạch và có trách nhiệm giải
trình. Quản lý và sử dụng đất phải bảo đảm lợi ích chung của toàn dân; nhân dân
được tạo điều kiện tiếp cận, sử dụng đất công bằng, hiệu quả và bền vững.
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo lãnh thổ quốc gia, cả về
diện tích, chất lượng, giá trị kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi
trường; phân công hợp lý giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương, đồng thời có
sự phân cấp phù hợp, hiệu quả đối với địa phương.
- Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và
hàng hoá đặc biệt nhưng không phải là quyền sở hữu; quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất được pháp luật bảo hộ. Người sử dụng đất có
quyền và nghĩa vụ sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước không thừa
nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá
trình thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai; không đặt vấn đề điều chỉnh
lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân; có chính sách để đất nông
nghiệp được sử dụng với hiệu quả cao nhất.
- Thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng
bộ với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có
chính sách phù hợp với đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát
huy cao nhất nguồn lực đất đai; khắc phục tình
trạng sử dụng đất đai lãng phí, tham nhũng, khiếu kiện và đầu cơ đất đai.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
về đất đai. Hiện đại hoá
công tác quản
lý đất đai, dịch vụ công về đất đai. Củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ
máy quản lý đất đai tập trung, đồng bộ, thống nhất. Nâng cao vai
trò và năng lực các cơ quan tư pháp trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh
chấp về đất đai. Đất đai phải được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm
kê, lượng hoá, hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế; được quy hoạch sử dụng hợp lý với tầm nhìn dài hạn, hài hoà lợi ích giữa
các thế hệ, các vùng, miền, giữa phát triển kinh tế - xã hội với
bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường và thích ứng với
biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Giải
quyết tốt những bất cập, vướng mắc trong quản lý và sử dụng đất do lịch sử để
lại và từ yêu cầu mới của thực tiễn.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát thực
hiện chính sách, pháp luật về đất đai.
3. Mục tiêu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định mục tiêu tổng quát
là: Hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và
sử dụng đất phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đất đai được huy động, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững; được
quản lý với hiệu lực, hiệu quả cao; thị trường bất động sản, trong đó có thị
trường quyền sử dụng đất, trở thành kênh phân bổ đất đai hợp lý, công bằng, hiệu
quả; nguồn lực đất đai được vốn hoá, khai thác, phát huy cao nhất; đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo đảm công bằng, ổn định xã hội
và bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí
hậu; tạo động lực để nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
Mục
tiêu cụ thể đến năm
2025 là: (1) Ưu tiên
thời gian, nguồn lực để sớm hoàn thành
sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 vào năm 2023 và một số luật liên quan để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất. (2) Hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu số và hệ
thống thông tin quốc gia về đất đai tập trung, thống nhất, đồng bộ, đa mục tiêu
và kết nối liên thông. (3) Hoàn thành việc kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đất đai theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ, thống nhất; có sự phân cấp phù hợp,
hiệu quả kèm theo cơ chế kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực. (4) Giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng
mắc có liên quan đến quản lý và sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường
quốc doanh; đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất và
xây dựng kinh tế; đất của các cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp tập trung đông
người đã di dời ra khỏi trung tâm các đô thị lớn; đất tôn giáo; đất kết hợp sử
dụng nhiều mục đích; đất sản xuất, đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Mục tiêu đến
năm 2030: (1) Hệ thống pháp luật về đất đai được hoàn thiện đồng bộ, thống nhất, phù
hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (2) Khắc phục cơ bản tình trạng sử dụng
đất lãng phí, để đất hoang hoá, ô nhiễm, suy thoái.
4. Nhiệm vụ, giải pháp
Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể sau:
4.1. Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức về quản lý và sử
dụng đất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thống nhất nhận thức về đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhất là về quyền và nghĩa vụ của Nhà
nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được trao quyền sử
dụng đất. Đất đai là nguồn lực to lớn cần được phát huy, đồng thời cần được
quản lý và sử dụng có hiệu quả, bảo đảm công bằng xã hội; được bảo vệ, không để
bị suy thoái, huỷ hoại, lãng phí, tham nhũng.
4.2. Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý và sử dụng đất
đồng bộ với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác
định nhiệm vụ trọng tâm là sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 và các luật khác có liên quan, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu
cầu phát triển mới. Cụ thể:
- Đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch sử
dụng đất được lập ở cấp quốc
gia, cấp tỉnh và cấp huyện, đáp ứng yêu
cầu thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi
trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhà
nước bảo đảm đủ kinh phí cho việc lập quy hoạch sử dụng đất.
- Hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Chủ yếu thực hiện việc
giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử
dụng đất. Quy định cụ thể về các trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất, các trường hợp đấu
thầu dự án có sử dụng đất, hạn chế và quy định chặt chẽ việc
giao đất, cho thuê đất không thông
qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất; bảo đảm công khai, minh bạch. Có cơ chế đồng bộ, cụ thể để
xử lý trường hợp vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, nhất là liên quan
tới đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất, đặc biệt là đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng; đất
rừng sản xuất là rừng tự nhiên; đất tại các doanh nghiệp nhà nước thoái vốn, cổ
phần hoá các loại đất được sử dụng đa mục đích; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
- Hoàn thiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng. Việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư phải bảo đảm công khai, minh bạch, hài hoà lợi ích
của Nhà nước, người có đất bị thu hồi và nhà đầu tư theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật. Việc thu hồi đất phải tuân thủ Hiến pháp và quy định của Luật Đất
đai nhưng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải đi trước một bước, cần có quy định cụ thể về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm tránh tình trạng khi thu hồi đất xong thì người
dân không có chỗ ở, bảo đảm cuộc sống của
người dân có đất bị thu hồi phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
- Hoàn thiện cơ chế xác định giá đất. Bỏ khung giá đất; có cơ chế, phương pháp xác định giá đất, cơ quan
chịu trách nhiệm xác định, quyết định giá đất, giám sát, kiểm tra..., có cơ chế hữu hiệu để nâng cao chất lượng công tác định
giá đất, tính độc lập của hội đồng thẩm định giá đất, năng lực của tổ chức tư
vấn xác định giá đất, năng lực và đạo đức của các định giá viên; bổ sung
các quy định bảo đảm công khai, minh bạch.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách
tài chính về đất đai. Chính sách tài chính về đất đai phải bảo đảm hài hoà lợi ích của
Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Thực hiện chính sách ưu đãi thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối
với lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư; đối với hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình người
có công với cách mạng. Cơ chế Nhà nước thu và điều tiết chung nguồn thu từ đất của các địa
phương. Đồng thời, cần nghiên cứu có chính sách điều tiết chênh lệch địa tô, bảo
đảm công khai, minh bạch.
Về cơ
bản thực hiện theo hình thức cho thuê đất trả tiền hằng năm, trừ trường hợp đặc
biệt sẽ được trả tiền thuê đất một lần theo quy định của pháp luật, bảo đảm phù
hợp với tình hình, tính chất, mục đích sử dụng đất, bảo đảm nguồn thu ổn định, tránh
thất thoát cho ngân sách nhà nước.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến thị trường bất động sản, trong
đó có thị trường quyền sử dụng đất. Đẩy mạnh thương mại hoá quyền sử dụng đất. Xây dựng hệ thống thông tin thị trường bất động sản gắn
với thông tin đất đai; có chính sách khuyến khích phát triển thị trường quyền
sử dụng đất, nhất là thị trường cho thuê đất nông nghiệp. Hoàn thiện cơ sở pháp
lý và tăng cường thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch bất
động sản. Có cơ chế bảo đảm thị trường bất động sản phát triển lành mạnh; kiểm
soát chặt chẽ, khắc phục tình trạng đầu cơ đất đai.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý, sử
dụng đất nông nghiệp. Tạo điều
kiện thuận lợi để người sử dụng đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sản
xuất cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo quy
hoạch. Việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa phải được sự đồng ý của cấp
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Tăng cường quản lý chất lượng đất, khắc
phục tình trạng thoái hoá, suy giảm chất lượng đất. Ưu tiên giao đất đối với
đồng bào dân tộc thiếu đất sản xuất.
- Xây dựng các quy định pháp luật đối với quản lý và sử dụng đất kết hợp đa
mục đích. Bổ sung, hoàn thiện các quy định đối với
quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh trên cơ sở tổng kết việc thí điểm một
số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc
phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất và xây dựng kinh tế. Bổ
sung các quy định về đất ở kết hợp với thương mại, dịch vụ; đất nông nghiệp kết
hợp với thương mại, dịch vụ; đất cho dự án du lịch có yếu tố tâm linh và một số
loại đất khác.
4.3. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và nâng
cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai
Kiện toàn, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương và địa
phương bảo đảm tinh gọn, ổn định, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả và đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý đất đai. Hoàn thiện phân quyền, phân
cấp trong việc thực hiện đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất
quản lý theo hướng nâng cao trách nhiệm của địa phương và có sự giám sát, kiểm tra, thanh tra của Trung ương; giảm đầu mối, giảm trung gian, gắn với
cải cách hành chính, giảm phiền hà, tiêu cực.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất; cơ
sở dữ liệu, hệ thống thông tin quốc gia về đất đai được bố trí nguồn lực hợp lý
để xây dựng, hoàn thiện đúng tiến độ; bảo đảm quản lý, vận hành tập trung, thống
nhất từ Trung ương đến địa phương. Tập trung nguồn lực đầu tư cho
công tác điều tra, đánh giá tài nguyên đất; thống kê, kiểm kê đất đai; giám sát
sử dụng đất; bảo vệ, cải tạo và phục hồi chất lượng đất nhằm quản lý chặt chẽ
về số lượng, chất lượng đất phục vụ cho việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất và làm cơ sở cho việc sử dụng đất bền vững.
4.4. Đổi mới, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát xử lý vi phạm; giải quyết tranh chấp, khiếu nại tố cáo liên quan đến đất
đai; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phòng, chống tham nhũng
Đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng,
thanh tra, giám sát, kiểm soát của Nhà nước trong việc xây dựng, ban hành, tổ
chức thực hiện thể chế, chính sách về đất đai; giải quyết tranh chấp, khiếu nại,
tố cáo liên quan đến đất đai; tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
trong quản lý và sử dụng đất. Tăng cường kiểm soát quyền lực, thường xuyên kiểm
tra, giám sát, thanh tra tình hình quản lý, sử dụng đất đai và xử lý kịp thời
các hành vi vi phạm pháp luật về đất đai. Tiến hành kiểm tra, thanh tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các
ngành, các
cấp, thực hiện phương châm giải quyết các tranh chấp từ cơ sở, tránh vượt
cấp lên Trung ương.
4.5. Tập trung giải quyết về cơ bản các tồn tại, vướng mắc
kéo dài liên quan đến quản lý và sử dụng đất
Tập trung nguồn lực đầu tư, chỉ đạo quyết liệt và nâng
cao trách nhiệm của các cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương trong xử
lý những tồn tại, vướng mắc về đất đai có nguồn gốc từ nông, lâm trường quốc
doanh; đất của các cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp tập trung đông người đã di
dời ra khỏi trung tâm các đô thị lớn; thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất khi
sắp xếp lại trụ sở, cơ sở làm việc thuộc sở hữu nhà nước để chuyển sang mục
đích phát triển kinh tế; các loại đất được sử dụng đa mục đích; giải quyết đất
ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất.
4.6. Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân trong quản lý và sử dụng đất
Đẩy mạnh và đổi mới hình thức, nội dung công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về đất đai cho mọi cán
bộ, đảng viên, người dân, doanh nghiệp, nhất là đối với các vùng, địa phương có
điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, nhất
là người đứng đầu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt việc xây dựng và thực
thi chính sách, pháp luật về đất đai và phải chịu trách nhiệm nếu để các tổ
chức, cá nhân thuộc phạm vi mình quản lý vi phạm pháp luật để trục lợi, gây
thất thoát, sử dụng lãng phí đất đai.
Tăng cường vai trò giám
sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân, phát hiện và phản ánh kịp thời những vướng
mắc, bất cập, sai phạm trong thi hành pháp luật về đất đai để lãnh đạo, chỉ đạo
xử lý kịp thời, hiệu quả.
II- TỔNG KẾT 15 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 7 KHOÁ X VỀ
NÔNG NGHIỆP, NÔNG DÂN, NÔNG THÔN
Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã xem xét, thảo luận về Tờ trình, Báo cáo tổng kết của Bộ
Chính trị; thống nhất ban hành Nghị quyết về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với
những nội dung cơ bản sau:
1. Tình hình và nguyên nhân
Ban Chấp hành Trung ương
Đảng thống nhất đánh giá, sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, toàn diện. Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về
quy mô và trình độ sản xuất, duy trì tăng
trưởng ở mức khá cao và tiếp tục khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia. Sản xuất kinh doanh nông nghiệp
chuyển mạnh theo hướng nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng, thích ứng với
biến đổi khí hậu. Việt Nam trở thành một trong những nước xuất
khẩu nông sản lớn trên thế giới. Nông dân đã phát huy tốt hơn vai trò chủ thể, tích cực trong chuyển đổi cơ
cấu sản xuất, ứng dụng khoa học - công nghệ, tham gia hợp tác, liên kết, khôi
phục và phát triển ngành nghề nông thôn, xây dựng nông thôn mới, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc. Thu nhập của nông dân ngày càng tăng, đời sống vật chất và
tinh thần không ngừng được cải thiện; niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước ngày càng được nâng cao. Nông thôn có sự thay đổi rõ rệt; chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trở thành
phong trào sâu rộng, có sức lan toả mạnh mẽ, nhận được sự tham gia tích cực của
cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở, của toàn dân và cộng đồng doanh
nghiệp, đã về đích sớm hơn 1,5 năm so với mục tiêu đề ra.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp
phát triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức sản
xuất chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết trong sản xuất kinh doanh,
kinh tế tập thể, hợp tác xã chậm phát triển. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực chưa
trở thành động lực chính để tạo đột phá phát triển. Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn chưa đạt yêu cầu. Thu nhập của phần lớn nông dân còn thấp, chênh lệch với thành thị và giữa các vùng, miền còn lớn; tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Xây dựng nông
thôn mới chưa đồng đều, nhiều nơi chưa chú trọng đúng mức tới phát triển sản
xuất, tạo sinh kế cho người dân, xây dựng đời sống văn hoá, bảo vệ môi trường.
Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khẳng định, những hạn
chế, yếu kém nói trên chủ yếu là do nhận thức về vị trí, vai trò của nông
nghiệp, nông dân, nông thôn chưa thật đầy
đủ, đúng mức, có lúc, có nơi còn thiếu chủ động, chưa sâu sát, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện Nghị quyết; sự phối hợp giữa các cấp uỷ, chính quyền, bộ, ngành, cơ quan
liên quan còn thiếu chặt chẽ, chưa hiệu quả; tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, hệ thống dịch vụ công chưa theo kịp yêu cầu
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Một số cơ chế, chính sách thiếu nguồn lực thực hiện, chưa
sát thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung. Đầu tư từ ngân sách nhà nước chưa đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra, thu hút
đầu tư từ xã hội còn thấp.
2. Quan điểm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất các quan điểm:
- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược
lâu dài trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở và lực
lượng quan trọng để phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, giữ vững ổn
định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá, sức mạnh con người Việt Nam, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với
biến đổi khí hậu, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước tiếp tục ưu tiên đầu tư cho nông
nghiệp, nông dân, nông thôn. Phát triển hài hoà giữa nông thôn và thành thị, giữa
các vùng, miền; gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp, giữa
phát triển nông thôn bền vững với quá trình đô thị hoá theo hướng "nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện
đại, nông dân văn minh".
- Nông
dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển. Nâng cao trình độ, năng
lực làm chủ của nông dân theo hướng phát triển toàn diện, văn minh, có tinh
thần yêu nước, đoàn kết, tự chủ, sáng tạo, ý chí tự lực tự cường, khát vọng xây
dựng quê hương, đất nước; có trình độ tổ chức sản xuất tiên tiến, nếp sống văn
minh, trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường, được thụ
hưởng thành tựu phát triển kinh tế - xã hội và tiếp cận các dịch vụ tiệm cận
với đô thị. Phát triển nông nghiệp, nông thôn phải hướng tới nâng cao toàn diện
đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và người dân nông thôn, lấy lợi ích
của người dân là mục tiêu cao nhất.
- Nông
nghiệp là lợi thế quốc gia, là trụ đỡ của nền kinh tế. Phát triển nông nghiệp
hiệu quả, bền vững, minh bạch, trách nhiệm, tích hợp đa giá trị theo hướng sinh
thái, khuyến khích phát triển nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn. Phát huy lợi
thế vùng, miền, tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp theo chuỗi giá trị, dựa
trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, giảm phát thải khí nhà
kính, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chuyển mạnh từ sản xuất nông nghiệp sang
phát triển kinh tế nông nghiệp, sản xuất gắn với nhu cầu thị trường, nâng cao
giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh, phát triển cả thị trường xuất khẩu và
thị trường trong nước.
- Xây
dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh, có kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, kết nối với đô thị; đời sống văn hoá phong phú, đậm
đà bản sắc dân tộc; môi trường xanh, sạch, đẹp; an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được bảo đảm. Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cần chú trọng
phát triển đồng bộ cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ gắn với cơ cấu lại lao
động, tạo sinh kế, việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông dân và người
dân nông thôn. Xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững.
Quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo tồn đa
dạng sinh học, phát triển bền vững các hệ sinh thái. Chủ động phòng, chống
thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao khả năng chống chịu, bảo đảm
an toàn cho người dân.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống
nông dân và người dân nông thôn là nhiệm vụ trọng tâm của cả
hệ thống chính trị. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đề cao vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
các cơ quan nhà nước. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện và
vận động hội viên, người dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
3. Mục tiêu
Ban
Chấp hành Trung ương Đảng xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là: Nông dân và người dân nông thôn có trình độ, đời sống vật
chất và tinh thần ngày càng cao, làm chủ quá
trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp phát
triển hiện đại, sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hiệu quả, bền vững theo hướng sinh
thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Nông
thôn phát triển toàn diện, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, giàu
bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường sống tốt đẹp; an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững; xây dựng tổ
chức đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là: Tốc độ tăng trưởng
GDP ngành nông nghiệp bình quân khoảng 3%/năm; tăng năng suất lao động nông nghiệp bình quân từ 5,5 - 6%/năm. Tốc độ tăng
trưởng công nghiệp, dịch vụ nông thôn bình quân trên 10%/năm. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 90%, trong
đó, 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; số đơn vị cấp
huyện đạt chuẩn nông thôn mới trên 70%, trong đó 35% số đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Thu nhập bình quân của người
dân nông thôn
năm 2030 tăng gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020. Tỉ lệ hộ gia
đình nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn đạt 80%. Tỉ trọng lao động
nông nghiệp trong tổng lao động xã hội dưới 20%; bình quân hằng năm đào tạo
nghề cho khoảng 1,5 triệu lao động nông thôn; tỉ lệ lao động nông thôn qua đào
tạo đạt trên 60%. Tỉ lệ che phủ rừng ổn định
ở mức 42%, nâng
cao năng suất, chất lượng rừng; tỉ lệ chất thải rắn sinh hoạt nông thôn được thu gom, xử lý
theo quy định đạt 90%.
Tầm nhìn đến năm 2045 là: Nông dân và người dân nông thôn văn minh phát triển toàn diện, có thu nhập cao. Nông nghiệp sinh thái, thông minh, sản xuất hàng hoá tập trung quy
mô lớn, giá trị gia tăng cao, công nghiệp chế biến nông sản hiện đại, quy mô
xuất khẩu nông sản đứng hàng đầu thế giới. Nông thôn hiện đại, điều kiện sống tiệm cận
với đô thị, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường sống xanh, sạch,
đẹp, quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.
4. Nhiệm vụ, giải pháp
Ban Chấp hành Trung
ương Đảng xác định
một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
4.1. Nâng
cao vai trò, vị thế, năng lực làm chủ, cải thiện toàn diện đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân và người dân nông thôn
Đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực làm chủ của nông dân
và người dân nông thôn là nhiệm vụ ưu tiên, xuyên suốt trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đổi mới toàn diện hình thức tổ
chức, nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn, nâng cao trình độ, kỹ năng
nghề, nhất là cho lao động trẻ, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn theo hướng tăng lao động trong khu
vực công nghiệp, dịch vụ, giảm lao động nông nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh
tế nông thôn, tạo nhiều việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập. Hoàn thiện các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở, sớm
ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đẩy mạnh các phong trào
nông dân khởi nghiệp, thi đua sản xuất kinh doanh, cùng nhau làm giàu, giảm nghèo
bền vững và xây dựng nông thôn mới. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo môi
trường thuận lợi để nông dân và người dân nông thôn phát triển sản xuất kinh
doanh, tạo sinh kế, việc làm ổn định, tiếp cận các nguồn lực, tiến bộ kỹ thuật;
nâng cao năng lực quản trị, chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang sản
xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao,
chuyển đổi số, đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
4.2. Phát triển nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng
sinh thái, ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, giá
trị gia tăng
Cơ cấu lại nông nghiệp thực chất, hiệu quả, khai thác và
phát huy lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa
phương; phát triển nông nghiệp hàng hoá tập trung quy mô lớn theo hướng hiện
đại, chuyên canh hàng hoá chất lượng cao. Sản xuất nông nghiệp dựa trên nền
tảng ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, cơ giới hoá, tự động hoá các
khâu sản xuất; gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất
với bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông sản. Tiếp tục đầu tư, cải tạo, nâng cấp,
xây dựng mới cơ sở hạ tầng sản xuất nông nghiệp, ưu tiên các công trình, dự án
phục vụ cơ cấu lại nông nghiệp. Đầu tư, phát triển mạnh công nghiệp giống cây
trồng, giống vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, chống chịu được dịch bệnh
và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đổi mới mạnh mẽ, tạo đột phá trong tổ chức
lại sản xuất, phát triển mạnh trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp,
thúc đẩy liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng, phát
triển bền vững. Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản đồng thời chú trọng phát
triển thị trường trong nước, tránh phụ thuộc vào một số ít thị trường.
Về trồng trọt, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phù hợp lợi
thế và nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, hình thành các vùng
sản xuất chuyên canh, quy mô lớn. Về chăn nuôi, phát triển chăn nuôi công
nghiệp ứng dụng công nghệ cao; hỗ trợ chăn nuôi trang trại, gia trại thân thiện
với môi trường. Về thuỷ sản, phát triển nuôi trồng thuỷ sản cả trên biển và nội
địa theo hướng công nghiệp, sinh thái; nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa
bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia. Về lâm nghiệp, quản lý, bảo vệ,
phát triển rừng, phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo
vệ cảnh quan, môi trường sinh thái.
4.3. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn
Xây dựng và tổ chức triển khai hiệu
quả các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đẩy
mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, phát triển công nghiệp, dịch vụ. Phát
triển toàn diện, đồng bộ kinh tế nông thôn với cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ hợp lý, dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; đào tạo, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh của nông dân và người dân nông thôn. Đầu tư
phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề phù hợp với quy hoạch và điều kiện cụ
thể tại địa phương; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút các thành
phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn trong sản xuất
nông nghiệp, chế biến, thương mại; tạo nhiều việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn, từng
bước giảm tình trạng di cư lao động nông thôn ra thành thị. Bảo tồn, phát triển các ngành nghề, dịch vụ nông thôn, du lịch
cộng đồng, du lịch sinh thái. Thực hiện
hiệu quả chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP), gắn với bảo tồn và phát huy
giá trị văn hoá truyền thống.
4.4. Xây dựng nông thôn theo hướng hiện đại gắn
với đô thị hoá
Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững gắn
với đô thị hoá, bảo đảm thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, vì lợi ích của
người dân. Tiếp tục thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới
kiểu mẫu và xây dựng nông thôn mới cấp thôn, bản. Có chính sách phù hợp đối với
xây dựng nông thôn mới ở từng vùng ven đô thị,
đồng bằng, miền núi, biên giới, hải đảo. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn đồng bộ, hiện đại, kết nối với đô
thị, nhất là các khu vực ven đô thị lớn, thị trấn, thị tứ, từng bước tiệm cận về
điều kiện hạ tầng, dịch vụ của đô thị. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế
- xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, phát triển bền vững kinh
tế - xã hội khu vực biên giới, biển đảo.
4.5. Hoàn thiện thể chế, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai theo hướng quản
lý, sử dụng bền vững, hiệu quả đất nông nghiệp; thúc đẩy tích tụ, tập trung, sử
dụng linh hoạt đất nông nghiệp; khắc phục tình trạng bỏ hoang, sử dụng kém hiệu
quả, làm thoái hoá đất; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất thu
hồi theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Tăng đầu tư từ ngân sách nhà
nước giai đoạn 2021 - 2030 cho nông nghiệp, nông thôn ít nhất gấp 2 lần giai
đoạn 2011 - 2020. Tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi, khuyến khích các tổ
chức tín dụng cho vay đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách hỗ trợ tín dụng cho hợp tác xã, doanh nghiệp, hộ nông thôn phát
triển sản xuất kinh doanh; nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng. Xây dựng chính
sách đủ mạnh để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn.
4.6. Tạo
đột phá trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển
đổi số; đào tạo nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn
Đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực nghiên
cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công
nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường; đẩy nhanh chuyển đổi số toàn
diện ngành nông nghiệp, trong đó khẩn trương xây dựng, hoàn thiện các cơ sở dữ
liệu lớn; thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đổi mới sáng tạo để khoa học - công nghệ
thực sự trở thành động lực chính phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Hỗ trợ thành lập các vườn ươm, trung tâm khởi nghiệp, quỹ
đầu tư đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp khởi nghiệp trong nông nghiệp, nông
thôn. Thúc đẩy các mô hình liên kết giữa các viện, trường, doanh nghiệp, hợp
tác xã và nông dân. Đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề trong nông nghiệp công nghệ
cao, công nghệ mới. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp và người dân ứng
dụng công nghệ cao. Xây dựng, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn liên thông với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên
ngành.
4.7. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường nông thôn, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống
thiên tai
Chuyển mạnh sang mô hình tăng trưởng xanh. Quản lý, sử
dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên nước gắn
với bảo tồn đa dạng sinh học. Quy hoạch sử dụng đất nông thôn gắn kết với phát
triển đô thị, khai thác và phát huy nguồn lực đất đai trong xây dựng, phát
triển kinh tế nông thôn. Bảo đảm an ninh, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, bền vững
nguồn nước. Khuyến khích phát triển nông nghiệp tuần hoàn, tái sử dụng phụ phẩm,
áp dụng công nghệ mới, tiên tiến, thân thiện môi trường.
4.8. Chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế, mở rộng thị
trường, thu hút nguồn lực và khoa học - công nghệ
Tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Khai thác
hiệu quả cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA), giữ ổn định các thị
trường truyền thống, phát triển thị trường mới, đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch.
Làm tốt công tác truyền thông, kịp thời cung cấp thông tin về các cam kết quốc
tế và sự thay đổi chính sách của các thị trường nhập khẩu. Triển khai hiệu quả,
thiết thực công tác quảng bá, xúc tiến thương mại dựa trên cơ sở ứng dụng mạnh
mẽ công nghệ thông tin và chuyển đổi số. Chủ động phòng, chống gian lận thương
mại; có các biện pháp phòng vệ phù hợp với cam kết quốc tế và kịp thời xử lý
tranh chấp thương mại phát sinh.
4.9. Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân và các tổ chức chính trị -
xã hội, xã hội nghề nghiệp ở nông thôn
Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền,
người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nâng cao năng lực, trách
nhiệm của chính quyền và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước các cấp về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Phát huy vai trò, sự vào cuộc tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông
dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp trong phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn.
III- TỔNG
KẾT 20 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 5 KHOÁ IX VỀ TIẾP TỤC ĐỔI
MỚI, PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TẬP THỂ
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
xem xét, thảo luận về Tờ trình và Đề án của Bộ Chính trị; thống nhất ban hành Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong
giai đoạn mới, với những nội dung cơ bản sau:
1. Tình hình và nguyên nhân
Ban Chấp
hành Trung ương Đảng thống nhất đánh giá: Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tập thể có những chuyển biến tích cực. Hợp tác
xã đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của pháp luật. Số lượng
liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã thành lập mới tăng; phát triển đa dạng hơn về
ngành nghề, quy mô và trình độ, hỗ trợ tốt hơn cho kinh tế thành viên, tạo việc
làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động. Tổ hợp tác với cơ cấu tổ chức
gọn nhẹ, nội dung hoạt động đơn giản nhưng thiết thực, đáp ứng được nhu cầu
liên kết linh hoạt và mang tính ngắn hạn của người dân. Liên kết giữa các hợp
tác xã với nhau và với các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Khu
vực kinh tế tập thể cơ bản đã khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài, góp
phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng trong nền kinh tế quốc dân.
Tuy
nhiên, khu vực kinh tế tập thể vẫn chưa phát triển như yêu cầu đặt ra; đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả còn nhiều khó khăn. Tốc độ tăng trưởng, tỉ
trọng đóng góp vào GDP cả nước của khu vực kinh tế tập thể trong nền kinh tế
còn thấp và có xu hướng giảm dần. Hợp tác xã phát triển không đồng đều giữa các
vùng, miền, giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Số lượng hợp tác xã
tuy tăng, nhưng số lượng thành viên bình quân trong hợp tác xã có xu hướng giảm;
việc tham gia vào hoạt động của hợp tác xã còn hình thức; năng lực nội tại, hiệu
quả hoạt động chưa cao, mô hình tổ chức còn lỏng lẻo, chưa phù hợp. Phần lớn tổ
hợp tác, hợp tác xã có quy mô nhỏ, vốn ít, phạm vi hoạt động hẹp, lợi ích mang
lại cho thành viên thấp.
Những hạn
chế, yếu kém nêu trên là do, nhận thức về bản chất, vị trí, vai trò của khu vực
kinh tế tập thể, hợp tác xã chưa đầy đủ, thiếu thống nhất. Việc lãnh đạo, chỉ
đạo của nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền còn hình thức, chưa thực sự quan tâm, thậm
chí còn hoài nghi về sự thành công của kinh tế tập thể. Chính sách ưu đãi, hỗ
trợ cho kinh tế tập thể dàn trải, phân tán, chủ yếu là lồng ghép, chưa thống
nhất, thiếu nguồn lực để tổ chức thực hiện. Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế
tập thể còn nhiều bất cập, không thống nhất, phân tán, chưa hiệu quả. Công tác
quản lý nhà nước ở một số nơi còn buông lỏng hoặc can thiệp quá sâu, không đúng
đối với tổ chức, hoạt động của hợp tác xã. Đội ngũ cán bộ về hợp tác xã còn yếu,
chưa được đào tạo chuyên sâu về kinh tế tập thể.
2. Quan điểm chỉ đạo và mục tiêu
2.1. Quan điểm chỉ đạo
Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khẳng định:
- Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển, là thành
phần kinh tế quan trọng cùng kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tập thể là xu thế tất yếu
khách quan trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, phù hợp với cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phải xuất phát từ nhu cầu của thành
viên, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện cho thành viên tăng năng suất, hiệu quả
sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Phát triển kinh tế tập thể phải tôn
trọng giá trị, nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã, phù hợp với điều kiện, đặc
điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng vùng và của cả nước.
- Kinh tế tập thể với nhiều hình thức tổ chức kinh tế hợp tác đa
dạng, phát triển từ thấp đến cao (tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã,
liên đoàn hợp tác xã) trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các liên hiệp, liên
đoàn hợp tác xã, không giới hạn về quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Kinh tế
tập thể lấy lợi ích kinh tế là chính, bao gồm lợi ích của thành viên và lợi ích
tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội trên địa bàn.
- Kinh tế tập thể phát triển dựa trên sở hữu riêng của thành viên
và sở hữu chung của tổ chức; tổ chức hoạt động theo nguyên tắc đối nhân không
phụ thuộc vào vốn góp; phân phối theo mức độ tham gia dịch vụ, theo lao động và
theo vốn góp. Thành viên kinh tế tập thể bao gồm các cá nhân và pháp nhân, thành
viên chính thức và thành viên liên kết, cả người ít vốn và nhiều vốn, cùng góp
vốn, góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi
và quản lý dân chủ. Khuyến khích việc tích lũy và sử dụng có hiệu quả vốn, tài
sản chung trong tổ chức kinh tế hợp tác.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển kinh tế tập
thể phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh
tế tập thể cả về số lượng và chất lượng, trong đó chú trọng về chất lượng, bảo
đảm sự hài hoà trong tất cả các ngành, lĩnh vực, địa bàn của nền kinh tế, có chính
sách ưu tiên các tổ chức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn hoạt
động sản xuất kinh doanh với chuỗi giá trị sản phẩm, ứng dụng khoa học công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; ưu tiên phát triển các tổ chức kinh tế hợp
tác gắn với kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức. Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải toàn
diện cả kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, cả hiệu quả của tổ
chức và của các thành viên.
- Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Cấp uỷ đảng, chính quyền các cấp trực tiếp
lãnh đạo, chỉ đạo và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên.
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, Liên minh hợp tác xã và các
tổ chức đại diện phối hợp chặt chẽ trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng
tham gia kinh tế tập thể.
2.2. Mục tiêu tổng quát
Phát triển
kinh tế tập thể năng động, hiệu quả, bền vững thực sự là nền tảng của nền kinh
tế với nhiều mô hình liên kết, hợp tác trên cơ sở tôn trọng bản chất, các giá
trị và nguyên tắc của kinh tế tập thể, thu hút ngày càng nhiều nông dân, hộ gia
đình, cá nhân và nhiều tổ chức tham gia; không ngừng nâng cao thu nhập và chất
lượng cuộc sống thành viên, hộ gia đình, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước.
2.3. Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu cụ thể đến năm 2030 cả nước có
khoảng 140.000 tổ hợp tác, với 2 triệu thành viên; 45.000 hợp tác xã với 8
triệu thành viên; 340 liên hiệp hợp tác xã với 1.700 hợp tác xã thành viên; xây
dựng thí điểm một số liên đoàn hợp tác xã. Bảo đảm trên 80% tổ chức kinh tế hợp
tác hoạt động hiệu quả, trong đó có ít nhất 50% tham gia liên kết theo chuỗi
giá trị. Có trên 5.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp; phát triển các chuỗi giá trị nông sản hàng hoá gắn với
liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; đẩy mạnh tham gia
vào các chuỗi cung ứng đưa sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu trực tiếp ra nước
ngoài.
Tầm nhìn đến năm 2045: Thu hút tối
thiểu 20% dân số tham gia các tổ chức kinh tế hợp tác. Mở rộng quy mô hoạt động
của các tổ chức kinh tế hợp tác, bảo đảm chất lượng hoạt động ngang tầm phong
trào hợp tác xã các nước trong khu vực và trên thế giới. Các hợp tác xã đều áp
dụng công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ; bảo đảm trên 90% tổ
chức kinh tế hợp tác hoạt động hiệu quả, trong đó có ít nhất 75% tham gia các
chuỗi liên kết. Đẩy mạnh phát triển mô hình liên đoàn hợp tác xã, mô hình doanh
nghiệp trực thuộc các tổ chức kinh tế hợp tác. Có ít nhất
3 tổ chức kinh tế hợp tác nằm trong bảng xếp hạng 300 hợp tác xã lớn nhất toàn
cầu do Liên minh Hợp tác xã quốc tế (ICA) công nhận.
3. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu
3.1. Nhận
thức đúng bản chất, vị trí, vai trò của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Nhận thức
rõ phát triển kinh tế tập thể là yêu cầu và xu thế tất yếu khách quan trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là hình thức liên kết
tự nguyện của các cá nhân, pháp nhân nhằm kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh
của từng thành viên để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề trong sản xuất, kinh
doanh và đời sống.
Tăng cường công tác vận động, tuyên truyền
nâng cao nhận thức về bản chất, khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kịp
thời khen thưởng, tôn vinh và nhân rộng các tổ chức kinh tế hợp tác hoạt động
hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, đất nước, cụ thể như sau:
- Phát triển kinh tế tập thể là thành phần kinh
tế quan trọng cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân, là phương thức khắc phục những mặt trái của kinh tế
thị trường, là nền tảng chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước để đạt mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Phát triển kinh tế tập thể ở nước ta không
chỉ nhằm mục tiêu kinh tế, mà còn mục tiêu xã hội, văn hoá, quốc phòng, an
ninh. Kinh tế tập thể là cơ sở để đưa "hợp tác" trở thành văn hoá, bản
sắc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Kinh tế tập thể ở nước ta phát triển nhiều
cấp độ, dưới nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với trình độ của lực lượng sản
xuất, nhu cầu và nguyện vọng của thành viên, phù hợp với yêu cầu điều kiện của
từng ngành, lĩnh vực, từng địa bàn khác nhau…
- Tổ chức kinh tế hợp tác là hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc
thành phần kinh tế tập thể, là tổ chức kinh tế của những cá nhân, pháp nhân có
nhu cầu, tự nguyện lập ra và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình theo
quy định của pháp luật; hoạt động bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác. Nhà
nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của tổ chức kinh tế hợp tác mà chỉ
quản lý thông qua pháp luật và chính sách.
- Hiệu quả
của tổ chức kinh tế hợp tác được đánh giá chủ yếu dựa trên số lượng thành viên
tham gia và lợi ích tổ chức mang lại cho thành viên, mang lại cho cộng đồng xã
hội. Đóng góp về mặt kinh tế của kinh tế tập thể trong nền kinh tế quốc dân bao
gồm đóng góp của các tổ chức kinh tế hợp tác và đóng góp của các thành viên
trong tổ chức kinh tế hợp tác. Đóng góp về mặt xã hội của kinh tế tập thể thể
hiện ở số lượng thành viên; số lượng việc làm; thu nhập bình quân của thành
viên, lao động trong tổ chức…
3.2. Bổ
sung, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển
kinh tế tập thể, các tổ chức kinh tế hợp tác
- Sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật về kinh tế tập thể theo hướng: Hoàn thiện quy định
về các loại hình tổ chức kinh tế hợp tác, tổ chức đại diện; quy định về bản
chất hợp tác xã, phát triển thành viên; quy định về nâng cao khả năng huy động
vốn, tăng tích lũy vốn và tài sản chung; quy định về phát triển doanh nghiệp
trong hợp tác xã; bổ sung đầy đủ cơ sở pháp lý về kiểm toán, các quy định nhằm
nâng cao tính minh bạch trong quản lý, điều hành; các quy định nâng cao hiệu
quả, chất lượng chính sách hỗ trợ của Nhà nước, quản lý nhà nước đối với kinh
tế tập thể; có chính sách hỗ trợ, thu hút nguồn lực, ứng dụng công nghệ, tiếp
cận kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, nông nghiệp hữu cơ thích ứng biến đổi khí
hậu, chuyển đổi số, mở rộng thị trường cho kinh tế tập thể phát triển, bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
- Sửa đổi, bổ
sung các chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể theo hướng coi
các tổ chức kinh tế hợp tác là chủ thể phù hợp kết hợp giữa đầu tư của Nhà nước
và đầu tư, quản lý của tập thể người dân (đầu tư công - quản trị cộng đồng).
Nhà nước có chương trình tổng thể về phát triển kinh tế tập thể và bố trí nguồn
lực tập trung, tương xứng, phù hợp với từng lĩnh vực, địa bàn, điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước và trình độ phát triển
của kinh tế tập thể.
Để các tổ
chức kinh tế hợp tác tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, phục vụ tốt hơn cho
cộng đồng thành viên, Nhà nước có một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho
kinh tế hợp tác đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn, bảo đảm tính bình đẳng trong phát triển với các loại hình kinh tế khác, trong
đó tập trung: (1) Chính sách phát triển nguồn nhân lực. (2) Chính sách đất đai.
(3) Chính sách tài chính. (4) Chính sách tín dụng. (5) Chính sách khoa học - công nghệ. (6) Chính sách hỗ trợ về
thông tin kinh tế, kỹ năng tiếp thị và nghiên
cứu thị trường. (7) Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. (8) Chính
sách bảo hiểm xã hội.
3.3. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động của các tổ chức kinh tế hợp tác
- Tập trung giải quyết dứt điểm các vấn đề còn tồn đọng của kinh tế tập
thể; các quan hệ về tài sản của hợp tác xã, đặc biệt là những tài sản liên quan
đến đất đai. Tiếp tục cơ cấu lại các hợp tác xã tín dụng, nhất là xử lý một số
hợp tác xã tín dụng yếu kém.
- Phát huy
tinh thần dân chủ, tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của thành viên; kết
hợp động lực kinh tế với động lực tinh thần, khơi dậy phong trào tham gia kinh
tế hợp tác. Khuyến khích mở rộng, đa dạng hoá các loại thành viên. Thành viên tham gia vẫn là những chủ thể kinh
tế tự chủ, được hưởng đầy đủ quyền lợi và chịu trách nhiệm đối với phần đóng
góp của mình theo quy định của pháp luật và điều lệ của tổ chức. Một cá nhân, pháp
nhân có thể là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế hợp tác (nếu điều lệ tổ
chức không quy định khác) và có quyền rút khỏi tổ chức kinh tế hợp tác.
- Khuyến
khích việc tăng vốn góp và vốn huy động từ thành viên, tăng vốn đầu tư phát
triển, tăng tài sản và quỹ không chia của tổ chức kinh tế hợp tác; thực hiện
hoạt động tín dụng nội bộ, thành lập doanh nghiệp tại những tổ chức kinh tế hợp
tác có đủ điều kiện; nghiên cứu uỷ thác một số dịch vụ công cho các tổ chức
kinh tế hợp tác; khuyến khích liên kết kinh tế giữa các tổ chức kinh tế hợp tác
hoạt động trong cùng ngành, lĩnh vực, từng bước hình thành các liên đoàn hợp
tác xã hoạt động chuyên môn hoá cao trong một ngành, lĩnh vực cụ thể.
- Tăng
cường mối liên kết giữa tổ chức kinh tế hợp tác với các thành phần kinh tế khác
trong đó đặc biệt là liên kết với kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước ưu
tiên hỗ trợ liên kết, tiêu thụ, sử dụng sản phẩm, dịch vụ, tạo điều kiện cho
các tổ chức kinh tế hợp tác hoạt động có hiệu quả; sớm khắc phục tình trạng cắt
rời kinh tế nhà nước với kinh tế tập thể. Ưu tiên các tổ chức kinh tế hợp tác
tham gia mua cổ phần, góp vốn vào doanh nghiệp khi cổ phần hoá, thoái vốn nhà
nước. Ưu tiên chuyển giao doanh nghiệp nhà nước cho tập thể người lao động theo
hình thức kinh tế hợp tác.
3.4. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với kinh tế tập thể
- Tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể trong phạm vi cả
nước trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về
kinh tế tập thể. Xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể tập trung,
thống nhất, xuyên suốt trong chỉ đạo điều hành từ Trung ương đến địa phương để
huy động các nguồn lực và triển khai trực tiếp các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước đối với kinh tế tập thể.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, được
đào tạo chính quy về kinh tế tập thể, có tư tưởng chính trị vững vàng.
- Tăng cường tính minh bạch trong quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý, từng bước xây dựng, hoàn thiện hệ thống
cơ sở dữ liệu quốc gia về kinh tế tập thể, liên thông với hệ thống đăng ký kinh
doanh và đăng ký thuế.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách
nhiệm giải trình, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp
luật.
- Tăng cường phối hợp với các cơ quan
liên quan trong việc xây dựng và triển khai các hoạt động đối ngoại và hợp tác
quốc tế.
- Trong khi chờ sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về kinh tế tập
thể, tiến hành thí điểm triển khai những nội dung của Nghị quyết khác với quy
định hiện hành.
3.5. Đổi mới nội dung, phương thức và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã
hội - nghề nghiệp đối với phát triển kinh tế tập thể
- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần nắm chắc chủ trương và các quan
điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế tập thể để phối
hợp tổ chức vận động và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, góp phần đưa
Nghị quyết vào cuộc sống.
- Đối với
các tổ chức kinh tế hợp tác có số lượng thành viên lớn, có các tổ chức đoàn thể
trong tổ chức kinh tế hợp tác, cần xây dựng các tổ chức đoàn thể vững mạnh, sát
cánh cùng hội đồng quản trị, ban giám đốc xây dựng tổ chức phát triển vững
mạnh.
- Tăng
cường hoạt động của hệ thống liên minh hợp tác xã và các tổ chức đại diện. Liên
minh hợp tác xã là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức kinh tế hợp tác, giữ vai trò nòng cốt và thúc đẩy phát triển kinh tế
tập thể, làm cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với thành phần kinh tế tập thể, góp
phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
IV- VỀ XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VÀ ĐẢNG VIÊN
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
xem xét, thảo luận về Tờ trình và Đề án của Bộ Chính trị; thống nhất ban hành
Nghị quyết về tăng cường củng cố, xây
dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới, với
những nội dung cơ bản sau:
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thống nhất
khẳng định: Trong những năm qua, công tác xây
dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên luôn được Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo và đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, củng cố, tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Tổ chức cơ sở đảng từng bước được củng
cố, kiện toàn, sắp xếp phù hợp; chức năng, nhiệm vụ được sửa đổi, bổ sung; tăng
cường công tác lãnh đạo, cụ thể hoá, tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực
đội ngũ cấp uỷ viên, bí thư cấp uỷ cơ sở được quan tâm.
Chất
lượng đội ngũ đảng viên có chuyển biến tích cực, trình độ học vấn, chuyên môn, lý
luận chính trị được nâng cao hơn; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, rà soát, sàng lọc, đánh
giá, xếp loại chất lượng, kiểm tra, giám
sát đảng viên thực hiện nhiệm vụ, xử lý đảng viên vi phạm, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi
Đảng. Công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện
suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" được đẩy
mạnh; phần lớn đội ngũ đảng viên ở cở sở nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý
thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, ý thức tự phê
bình và phê bình, tinh thần tiên phong, gương mẫu, xây dựng mối quan hệ với
nhân dân, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh. Công tác phát triển đảng viên được chú
trọng, có cơ cấu độ tuổi tương đối phù hợp, số lượng đảng viên nữ, trẻ, đồng
bào dân tộc thiểu số, người có tôn giáo, chủ doanh nghiệp tư nhân tăng, tạo
nguồn cán bộ cho Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất cho
rằng, bên cạnh những kết quả đạt được, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ
sở đảng còn hạn chế, ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Một số tổ
chức cơ sở đảng chậm đổi mới phương thức lãnh đạo; thực hiện chưa nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ; chất lượng sinh hoạt đảng, tinh thần tự phê bình và phê
bình hạn chế; chưa giải quyết hiệu quả những khó khăn, bức xúc của nhân dân; chưa phân công thường xuyên và kiểm tra kết quả thực
hiện nhiệm vụ của đảng viên. Một số cấp uỷ cơ sở chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu
gương mẫu; chưa chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu
hiệu vi phạm; mất sức chiến
đấu, để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật, làm giảm
niềm tin, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Chất
lượng của tổ chức cơ sở đảng chưa theo kịp yêu cầu của quá trình phát triển. Công
tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong khu vực ngoài nhà nước, nhất là doanh
nghiệp tư nhân còn hạn chế, tỉ lệ tổ chức đảng, đảng viên thấp, vai trò mờ nhạt,
còn lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động. Một số tổ chức cơ sở
đảng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, ở ngoài nước… hoạt động còn khó
khăn. Năng lực, trình độ của một bộ phận
đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
mới. Một bộ phận đảng viên phai nhạt lý tưởng, thiếu bản lĩnh chính
trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn
đấu giảm sút; chưa gương mẫu, chạy theo lối sống thực dụng; suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá", vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, kiểm tra, giám sát
đảng viên của một số tổ chức cơ sở đảng còn buông lỏng,
chưa nắm chắc tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên; công tác đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên ở một số nơi còn hình thức, chạy
theo thành tích, một số tổ chức cơ sở đảng chưa làm tốt công tác quản lý đảng
viên; việc xét, miễn công tác và sinh hoạt đảng còn lỏng lẻo; chưa
thường xuyên, kiên quyết rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách
ra khỏi Đảng. Công tác phát triển đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng; chưa quan tâm công tác
giáo dục lý tưởng cách mạng và rèn luyện, thử thách đối với quần chúng
phấn đấu vào Đảng; nhận thức, động cơ phấn đấu vào Đảng, chất lượng của một số
đảng viên mới còn hạn chế; cơ cấu đảng viên chưa hợp lý, tỉ lệ đảng viên
trẻ chưa tương xứng với tiềm năng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định, những
hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó
nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Nhận thức của một số cấp uỷ, một bộ phận cán
bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý về vai trò, vị trí, yêu
cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ đảng viên chưa sâu sắc, toàn diện; một số cấp uỷ năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo hiệu quả chưa cao. Một số quy định, hướng dẫn về tổ chức cơ sở
đảng, đảng viên chậm được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung. Một số nơi chưa chú
trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; chưa quan tâm rèn luyện bản lĩnh
chính trị, nâng cao đạo đức cho cán bộ, đảng viên; một bộ phận thanh niên giảm
sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, sống thực dụng, xa rời truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, không muốn phấn đấu vào Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất, để
phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục hiệu quả những hạn chế, yếu kém
trong công tác xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, các cấp uỷ, tổ chức đảng
cần tập trung quán triệt, thống nhất nhận thức và triển khai thực hiện tốt
những vấn đề sau:
1. Quan điểm
- Tổ chức cơ
sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Ðảng
với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, có vị trí quan trọng trong
hệ thống tổ chức của Ðảng. Đội ngũ đảng viên có vai trò trực tiếp và là nhân tố
cơ bản quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Công
tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội
ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, liên tục, là trách
nhiệm của các cấp uỷ đảng, đảng viên, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ
thống chính trị; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; bảo đảm
tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng; nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ.
- Tạo môi
trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần
tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc về sinh hoạt đảng và lời
thề của đảng viên khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân. Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, quan
tâm phát triển đảng viên trong đoàn viên, hội viên ưu tú, quần chúng tiêu biểu.
Thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi
Đảng.
2. Mục tiêu: Ban Chấp
hành Trung ương Đảng thống nhất mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể như sau:
2.1. Mục
tiêu tổng quát
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng và chất lượng của đội ngũ đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh. Xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên, nhất là bí
thư cấp uỷ đủ năng lực, uy tín lãnh đạo tổ chức cơ sở đảng thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ chính trị. Nâng cao chất lượng phát triển đảng viên đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới.
2.2. Mục
tiêu cụ thể
Đến năm
2025: (1) Hằng
năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh giá, xếp loại hoàn
thành tốt nhiệm vụ trở lên. (2) Phấn đấu đạt 95% bí thư, phó bí thư cấp uỷ cơ
sở có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên. (3) Phấn đấu 90% các
trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố là đảng viên. (4) Phấn đấu 100% thôn, bản có
đảng viên. (5) Giai đoạn 2020 - 2025, phấn đấu tỉ lệ kết nạp đảng viên mới hằng
năm đạt từ 3% - 4% tổng số đảng viên.
Đến năm
2030: (1) Hằng năm có trên 90% tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được đánh
giá, xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên. (2) Phấn đấu 100% bí thư, phó bí thư cấp uỷ cơ sở có trình độ lý luận
chính trị từ trung cấp trở lên. (3) Phấn đấu 100% trưởng thôn, tổ trưởng
tổ dân phố là đảng viên. (4) Phấn đấu 100% thôn, bản, tổ dân phố có chi bộ. (5)
Giai đoạn 2025 - 2030, phấn đấu tỉ lệ kết nạp đảng viên mới đạt từ 3% - 4% tổng
số đảng viên.
3. Nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện có hiệu quả 4 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
3.1.
Củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
3.1.1. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức
của các loại hình tổ chức cơ sở đảng
- Củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng đồng bộ
với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và thực hiện chủ trương của Đảng về công tác cán bộ. Đối
với những nơi có tính đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cần
nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức cơ sở đảng vừa phù hợp với
nguyên tắc chung, vừa phù hợp với thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Nghiên cứu triển khai mô hình "chi bộ bốn tốt", "đảng bộ cơ sở bốn tốt", cụ thể là: Lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; chất lượng sinh hoạt tốt; đoàn
kết, kỷ luật tốt; cán bộ, đảng viên tốt.
- Tiếp tục củng cố, hoàn thiện mô hình tổ chức
cơ sở đảng trực thuộc đảng uỷ xã, phường, thị trấn. Đối với thôn, tổ dân phố có đông đảng viên thành lập chi bộ
trực thuộc đảng uỷ cơ sở và tổ chức thí
điểm sinh hoạt tổ đảng, sinh hoạt chi bộ phù hợp với số lượng đảng viên. Tổng kết, đánh giá mô hình đảng bộ bộ phận để đề ra giải pháp phù
hợp. Tiếp tục duy trì, củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của
các chi bộ quân sự, công an xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ, phù hợp với quy định về tổ chức đảng trong quân đội, công an.
- Đổi mới mô hình tổ
chức cơ sở đảng ở cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội, hội quần chúng, nhất là ở cấp huyện. Sắp xếp mô hình tổ chức cơ
sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp theo ngành, lãnh thổ
bảo đảm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và phối hợp chặt chẽ với cấp
uỷ trên địa bàn. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng
trong khu vực ngoài nhà nước, nhất là trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp tư nhân, đơn vị sự nghiệp tư. Giao một số quyền cấp trên cơ
sở cho đảng uỷ cơ sở có quy mô lớn, quan trọng, có số lượng đảng viên đông; nghiên
cứu mô hình tổ chức cơ sở đảng ngoài nước phù hợp đối với những địa bàn có vị
trí quan trọng, số lượng đảng viên đông, hoạt động trên phạm vi rộng, có tổng
lãnh sự quán.
- Sắp xếp tổ chức cơ sở đảng trong các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 50% vốn điều
lệ trở xuống; củng cố, phát triển tổ chức
đảng trong doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá nhằm tăng cường vai trò hạt nhân chính trị của đảng bộ, chi
bộ cơ sở. Đối với doanh nghiệp tư
nhân, chỉ thành lập tổ chức đảng khi đã phát triển được đủ số lượng đảng viên,
bảo đảm chất lượng, phát huy được vai trò lãnh đạo, định hướng hoạt động.
- Thành lập đảng bộ cơ sở
tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp; phát triển tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài để lãnh đạo công tác đảng, công tác quần chúng, phân công
cấp uỷ cấp trên trực tiếp phụ trách. Thực hiện giao một số quyền cấp trên cơ sở cho đảng uỷ cơ sở đối với những nơi có đảng bộ cơ sở trong
đảng bộ cơ sở. Đối với những đảng uỷ cơ sở được giao quyền cấp trên cơ
sở có đủ điều kiện thì nâng cấp thành cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ
sở đảng (tương đương cấp huyện).
- Tổng kết mô hình tổ chức cơ sở đảng trong các
loại hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã, tổ hợp tác, kinh tế trang trại..., tạo
điều kiện cho đảng viên làm việc trong loại hình này có nơi sinh hoạt đảng ổn
định, góp phần phát triển kinh tế, tham gia xây dựng tổ chức đảng.
3.1.2. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ
sở đảng
- Khẩn trương
nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hoá, triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định mới của Ban Bí
thư về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số
mô hình tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị sự nghiệp Trung ương; đảng bộ, chi
bộ cơ sở hoạt động ở nước ngoài; đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp do
Nhà nước nắm giữ 50% vốn điều lệ trở xuống; đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh
nghiệp nhà nước; tổ chức cơ sở đảng trong tập đoàn, tổng công ty, ngân hàng
thương mại nhà nước. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và hướng dẫn của cấp trên, đảng
uỷ, chi bộ cơ sở xây dựng quy chế cụ thể để thực hiện.
- Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ công tác của các
loại hình tổ chức cơ sở đảng và quy chế làm việc của cấp uỷ cơ sở, bảo đảm phù
hợp với thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ mới, trong đó, chú trọng các tổ chức cơ sở
đảng ở xã, phường, thị trấn; đảng bộ, chi bộ cơ sở ở cơ quan hành chính, đơn vị
sự nghiệp, cơ quan báo chí, hội quần chúng, trường học, bệnh viện ngoài công
lập, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
trong nước hoạt động ở nước ngoài, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp
tác… Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số tổ
chức cơ sở đảng trong Quân đội, Công an.
- Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa tổ chức
cơ sở đảng trong các tập đoàn, tổng công ty với cấp uỷ địa phương, bảo đảm sự
lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của cấp uỷ tập đoàn, tổng công ty, gắn
với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ địa phương. Nghiên cứu xây dựng quy chế phối hợp giữa cấp uỷ với chủ doanh
nghiệp tư nhân, nhằm phát huy vai trò của tổ chức đảng.
- Ban hành quy chế làm việc mẫu của cấp uỷ cơ
sở, làm căn cứ để mỗi cấp uỷ, chi bộ xây dựng quy chế làm việc, bảo đảm đồng bộ,
thống nhất, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn ở cơ sở.
3.1.3. Đổi mới nội dung, phương
thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng
sinh hoạt chi bộ
- Đổi mới nội dung, phương thức, phong cách
lãnh đạo, lề lối làm việc, nâng cao năng lực của cấp uỷ, bí thư cấp uỷ ở cơ sở,
bảo đảm vai trò hạt nhân và sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở; thực hiện
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật, kỷ
cương, đoàn kết trong Đảng. Nâng cao chất lượng cụ thể hoá chủ trương, nghị
quyết của cấp trên, phù hợp với thực tiễn, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính
trị, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp phải
nắm chắc tình hình, phân công cấp uỷ viên phụ trách, kịp thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
của tổ chức cơ sở đảng. Lấy hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng là một
trong những căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cấp uỷ cấp trên
trực tiếp và cấp uỷ viên được phân công phụ trách.
- Nâng cao hiệu quả công tác đánh giá chất
lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, khắc phục tình trạng hình thức, chạy
theo thành tích trong công tác đánh giá, xếp loại hằng năm. Tạo điều kiện cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia góp ý, giám sát hoạt động của chi bộ, cấp
uỷ, bí thư cấp uỷ cơ sở và đảng viên. Cấp uỷ, bí thư cấp uỷ phải chịu trách
nhiệm về kết quả đánh giá, thông báo công khai theo quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cấp uỷ, tổ chức cơ sở đảng, đảng viên về vai trò, vị trí, tầm quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo quy định của Ban Bí
thư, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nội dung sinh hoạt chi bộ phải gắn với đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, XII, Kết luận của Hội nghị Trung ương 4
khoá XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá"; kịp thời phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
ngay từ cơ sở.
- Thực hiện
nghiêm chế độ sinh hoạt chi bộ; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao
tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết nội bộ; nâng
cao chất lượng, mở rộng dân chủ trong sinh hoạt
đảng theo hướng thiết thực, có trọng tâm, trọng điểm; kịp thời thông tin, phổ
biến, quán triệt chủ trương, nghị quyết, lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình thời sự trong và ngoài nước; lắng
nghe và giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đảng viên và nhân dân.
Chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng; phát hiện, biểu dương, khen
thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên tiêu biểu; đồng thời, phê bình, xử
lý tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Cấp uỷ
cấp trên tăng cường hướng dẫn những nội dung mới, cần thiết cho tổ chức cơ sở
đảng và thường xuyên kiểm tra, giám sát việc sinh hoạt chi bộ.
- Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, hướng
vào những vấn đề mới, cần quan tâm. Có giải pháp sinh hoạt đảng phù
hợp đối với tổ chức đảng ở những địa bàn có nhiều đảng viên từ nơi khác đến, có
nhiều khu công nghiệp, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp tư nhân…; thí điểm sinh hoạt đảng trực tuyến ở một số đảng bộ, chi bộ đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt; tổ chức sinh hoạt đảng theo tổ đảng đối với một số nội dung phù hợp ở những chi bộ có đông
đảng viên; nghiên cứu, triển khai thực
hiện "Sổ tay đảng viên điện tử",
"Sổ biên bản điện tử" ở những nơi có đủ điều
kiện.
3.1.4. Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng
lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở
- Đẩy mạnh công tác đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng, công tác quần
chúng, kinh nghiệm thực tiễn, nhất là công tác dự báo, đánh giá tình hình, khả
năng cụ thể hoá và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng đáp ứng yêu
cầu thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị,
năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị cho đội ngũ cấp uỷ viên, bí thư
cấp uỷ cơ sở, bí thư, phó
bí thư chi bộ.
- Các cấp uỷ viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất
là người đứng đầu phải nêu cao trách nhiệm đối với công tác xây dựng Đảng ở
đảng bộ, chi bộ nơi mình sinh hoạt; gương mẫu tham gia sinh hoạt đảng và chịu
trách nhiệm khi tổ chức đảng nơi mình đang sinh hoạt yếu kém, xảy ra tham nhũng,
tiêu cực.
- Quan tâm xây
dựng, tạo nguồn cán bộ cơ sở, lựa chọn bí thư chi bộ từ đảng viên ưu tú, có phẩm chất, năng lực tốt, được đảng
viên, quần chúng tín nhiệm. Đối với chi bộ ở thôn, tổ dân phố, cần chú trọng
lựa chọn đảng viên là cán bộ hưu trí, cựu chiến binh, cựu quân nhân, người làm
công tác xã hội có uy tín, năng lực để làm bí thư chi bộ.
- Nghiên cứu cơ chế, chính sách đối với cán bộ
chuyên trách làm công tác văn phòng cấp uỷ cơ
sở; chế độ phụ cấp cho cấp uỷ viên ở những chi bộ có từ 100 đảng viên trở lên
và chi bộ có tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ đặc thù còn gặp nhiều khó khăn; chế
độ phụ cấp cho cán bộ đảng, đoàn thể, tổ chức đảng trực thuộc đảng uỷ cơ sở
trong các doanh nghiệp tư nhân; kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của tổ chức cơ sở
đảng ở vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt
khó khăn; mức đóng đảng phí đối với đảng viên là công nhân trong doanh nghiệp, tỉ lệ trích đảng
phí để lại chi bộ phù hợp với tình hình mới.
- Thực hiện thống nhất chủ trương bí thư cấp
uỷ đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị; bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch
Hội đồng nhân dân; bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Uỷ ban nhân dân ở những
nơi có điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ
dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.
3.2. Nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên
3.2.1. Đổi mới, tăng cường
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn
luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên
- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, nâng cao nhận thức, trình độ lý luận chính trị, tự giác nghiên cứu, học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ động
nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước
những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực
đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của
dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy
mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện, "tự
soi", "tự sửa", đề cao danh dự của người đảng viên. Phát huy vai trò của cơ quan thông tấn, báo chí trong công tác thông tin, tuyên truyền, giới thiệu
những tấm gương đảng viên tiêu biểu.
3.2.2. Tăng cường
công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng
viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng
- Cấp uỷ cơ sở phải làm tốt công tác
quản lý đảng viên; thường xuyên kiểm tra chi bộ, đảng viên thực hiện chế độ sinh hoạt đảng, công tác quản lý đảng viên của
chi bộ; tăng cường công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước.
- Cấp uỷ, chi bộ phải phân công nhiệm vụ cụ thể,
tạo điều kiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện của đảng viên. Mỗi đảng viên
phải xây dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện để chi uỷ, chi bộ kiểm tra, giám sát,
làm cơ sở để kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cuối năm.
- Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại chất
lượng đảng viên; phát hiện, động viên, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương
đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực; kịp thời nhắc nhở, giáo dục, giúp
đỡ đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có khuyết điểm, vi phạm.
- Sửa đổi, bổ sung, quy định chặt chẽ việc sinh
hoạt đảng đối với đảng viên nghỉ hưu; xem xét miễn công tác và sinh hoạt đảng
đối với đảng viên tuổi cao, sức khoẻ yếu không thể tham gia sinh hoạt đảng, khắc
phục tình trạng tuỳ tiện, buông lỏng quản lý, xem xét không đúng quy định. Rà
soát, bổ sung quy định về quản lý đảng viên đi học tập, làm ăn xa nơi cư trú; đảng
viên nghỉ hưu về làm việc trong khu vực ngoài nhà nước, các hội quần chúng; đảng
viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài nhất là sinh viên, người lao
động..., tạo điều kiện thuận lợi cho đảng viên là sinh viên, bộ đội xuất ngũ
sinh hoạt đảng. Thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm của đảng viên đang
công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản
lý đảng viên bảo đảm đồng bộ, liên thông trong
toàn Đảng; hoàn thành cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên.
- Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết
đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Tổ chức cơ sở đảng phải xác
định được đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ; đảng viên không thực hiện đúng
chế độ chuyển sinh hoạt hoặc đã chuyển sinh hoạt đảng nhưng không nộp hồ sơ cho
tổ chức đảng có thẩm quyền; đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước; đảng
viên thiếu gương mẫu, uy tín thấp. Khắc phục triệt để tình trạng dễ dãi, nể
nang, né tránh trong công tác đánh giá, phân loại đảng viên và rà soát, sàng
lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng. Nghiên cứu quy định phù hợp việc chuyển sinh hoạt đảng cho đảng viên
là sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đảng
viên đi làm ăn xa, khắc phục tình trạng đảng viên không nộp
hồ sơ khi chuyển sinh hoạt đảng.
3.2.3. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp
đảng viên
- Các cấp
uỷ căn cứ tình hình thực tế để xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên của cả
nhiệm kỳ, hằng năm và thực hiện có hiệu quả; tạo môi trường thuận lợi để quần
chúng phấn đấu, rèn luyện, giác ngộ lý tưởng, có động cơ, mục đích vào Đảng
trong sáng. Tiếp tục tăng số lượng đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng phát
triển đảng viên; quan tâm phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những đoàn viên,
hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang;
phát triển đảng viên khu vực ngoài nhà nước, trong công nhân, nông dân, trí
thức, doanh nhân, miền núi, biên giới, hải đảo theo phương châm "Ở đâu có
dân thì ở đó có đảng viên" nhằm tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị
các cấp trước mắt và lâu dài.
- Đối với các địa phương còn nhiều thôn, làng, ấp,
bản, tổ dân phố, trường học, doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng
viên, cần tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt
động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức công đoàn và các
tổ chức chính trị - xã hội khác để
tập hợp quần chúng, tạo nguồn kết nạp đảng viên, xây dựng lực lượng nòng cốt cho Đảng. Cấp
uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng phân công cấp uỷ viên phụ trách, cấp uỷ cơ sở giao nhiệm vụ cụ thể cho các chi bộ trong việc phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào
Đảng.
- Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối
tượng kết nạp Đảng và đảng viên mới bảo đảm
thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề
cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên
phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng.
3.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
- Coi trọng tự kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ
chức cơ sở đảng; kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát
theo chuyên đề. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc thực hiện Điều
lệ Đảng, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, sinh hoạt chi
bộ, thực hiện nhiệm vụ công tác, trách nhiệm nêu gương, quy định về những điều đảng
viên không được làm…
- Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của cấp uỷ cấp
trên đối với tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn của uỷ ban kiểm tra cấp trên đối với cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra cấp uỷ cơ sở về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; xử lý kịp thời đối với tổ
chức đảng, đảng viên vi phạm.
3.4. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng tổ chức cơ sở
đảng và đội ngũ đảng viên
- Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát việc thực hiện quy định nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của đảng viên ở nơi làm việc và nơi cư trú; đẩy mạnh các phong trào thi
đua yêu nước, từ đó phát hiện, lựa chọn nhân tố tích cực trong đoàn viên, hội
viên, quần chúng, người có uy tín trong cộng đồng dân cư để giới thiệu cho Đảng.
- Phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền,
vận động, tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Lấy kết quả công việc, sự hài
lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất
lượng tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng
viên.
V- BÁO CÁO
KIỂM ĐIỂM SỰ LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA BỘ CHÍNH TRỊ, BAN BÍ THƯ NĂM 2021
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đánh giá cao sự
chuẩn bị và tiến hành kiểm điểm hết sức nghiêm túc, trách nhiệm, gương mẫu của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư và thống nhất đánh giá: Năm 2021, trong bối cảnh có rất nhiều khó khăn, thách thức, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư luôn luôn đoàn kết, thống nhất, bình tĩnh, kiên
định, sáng suốt trước khó khăn, thử thách, có nhiều đổi mới và sáng tạo, bám sát quan điểm, chủ trương, đường lối, cụ thể hoá
các nội dung quan trọng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đã có các quyết
sách đúng đắn, kịp thời và phù hợp với tình hình thực tiễn để lãnh đạo, chỉ đạo
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tổ chức triển khai thực hiện, đạt được những kết
quả quan trọng, khá toàn diện, có những dấu ấn nổi bật, được cán bộ, đảng viên
và nhân dân ghi nhận, bạn bè thế giới đánh giá cao.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đồng tình, nhất
trí cao với những bài học kinh nghiệm dẫn đến thành công của năm 2021, đó là: (1)
Tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ chốt là một tập thể đoàn kết, thống
nhất, trên dưới đồng lòng, đã phát huy những bài học kinh nghiệm được rút ra
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; tập trung chỉ đạo triển
khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; quán triệt,
thực hiện nghiêm túc quan điểm "dân là gốc"; lãnh đạo, chỉ đạo với
quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, có bước đi phù hợp; chủ động
nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà
bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; khai
thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. (2) Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bám sát Quy chế làm việc, Chương trình
làm việc toàn khoá và Chương trình làm việc năm 2021, bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành khoa học, phối hợp nhịp nhàng, thống nhất,
không có tình trạng chồng chéo hoặc "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược".
(3) Phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có đổi mới, có sự phân
công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng, bảo đảm được sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
trực tiếp, toàn diện.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất với
những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban
Bí thư năm 2022 là: (1) Tiếp tục tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội
XIII, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Chuẩn bị nội dung
trình các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong năm 2022. (2) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
Chương trình phòng, chống dịch Covid-19 và Chương trình phục hồi và phát triển kinh
tế - xã hội; tháo gỡ khó khăn, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh, hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội năm 2022. Theo dõi sát tình hình quốc tế, khu vực để kịp
thời ứng phó trong điều hành sản xuất trong nước, cân đối cung cầu và có chính
sách xuất, nhập khẩu phù hợp. Đặc biệt, quan tâm chú ý chỉ đạo thực hiện hiệu
quả chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, không để xảy ra sai
phạm. Tăng cường chỉ đạo chất lượng, hiệu quả việc thực hiện cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh; phát triển kinh tế số, xã hội số; đẩy mạnh xây dựng, phát
triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
nghiên cứu khoa học, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Chú trọng giải quyết việc làm,
giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao mức sống nhân dân. Chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. Quản lý chặt chẽ, sử
dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ
động các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu. (3) Củng cố, tăng cường tiềm
lực quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Giữ vững an ninh chính
trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chỉ đạo thực hiện tốt công tác nghiên cứu,
dự báo chiến lược, đánh giá đúng tình hình, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình
huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống. Kết hợp chặt chẽ
giữa quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; triển khai
đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hoá tư
tưởng, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh xã hội, an ninh công nhân. Tiếp
tục phối hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn, phát huy sức mạnh tổng thể của 3 trụ cột
đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân; gắn kết chặt chẽ giữa
quốc phòng, an ninh, kinh tế và đối ngoại để xử lý hài hoà, khéo léo, cân bằng các
mối quan hệ, phát huy vị trí chiến lược, tranh thủ những cơ hội để có biện pháp
phù hợp nhằm giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định để phát triển đất nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập
quốc tế, đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế. (4)
Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trong Kế hoạch số 03-KH/TW,
ngày 01/12/2021 của Bộ Chính trị thực hiện Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá". Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn
diện, trong sạch, vững mạnh, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng
viên và nhất là trách nhiệm của người đứng đầu các cấp; củng cố lòng tin, sự
gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. (5) Tiếp tục
rà soát, hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng và Nhà nước, cải cách tư pháp, sắp xếp
tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường kỷ luật, kỷ
cương; tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
tiêu cực, thực hành tiết kiệm.
VI- ĐỀ ÁN THÀNH LẬP BAN CHỈ ĐẠO CẤP TỈNH
VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét, thảo
luận Tờ trình của Bộ Chính trị, Đề án thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực; dự thảo Quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức bộ máy, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo cấp
tỉnh. Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo
cấp tỉnh và ban hành Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức bộ máy, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh
với những nội dung chủ yếu sau:
1. Chức
năng: Ban Chỉ đạo cấp tỉnh do ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc
Trung ương thành lập, chịu trách nhiệm trước ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ và
Ban Chỉ đạo Trung ương trong việc chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, kiểm tra, giám
sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương.
2. Nhiệm vụ:
(1) Tham mưu, đề xuất xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các
chủ trương, chính sách của tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chỉ đạo
cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại địa phương; chỉ đạo thực hiện kết luận, chỉ
đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương và kết luận, kiến nghị của các cơ quan có thẩm
quyền ở Trung ương về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. (2) Xây dựng
và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở
địa phương và kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện. (3)
Chỉ đạo, đôn đốc, điều hoà phối hợp, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
nhiệm vụ về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương. (4) Chỉ đạo làm rõ
nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng, tiêu cực; những sơ hở, bất cập
trong cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị, yêu cầu khắc phục, hoàn thiện.
(5) Chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát cấp uỷ, tổ chức đảng và các cơ quan
chức năng trong việc kiểm tra, thanh tra, xử lý các vụ việc, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng, tiêu cực. (6) Chỉ đạo, đôn
đốc, kiểm tra, giám sát việc xử lý khiếu nại, tố cáo về hành vi tham nhũng, tiêu
cực và xử lý thông tin, kiến nghị về vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực ở địa
phương. (7) Chỉ đạo tuyên truyền, định hướng cung cấp thông tin về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực; chỉ đạo xử lý vi phạm trong công tác thông tin, tuyên
truyền về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. (8) Tổ chức sơ kết, tổng kết, định
kỳ và đột xuất báo cáo ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ và Ban Chỉ đạo Trung
ương về tình hình, kết quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các vụ
án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực phức tạp, dư luận xã hội quan tâm xảy ra ở địa
phương và kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh. (9) Thực hiện các nhiệm
vụ khác do ban thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ và Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực giao.
3. Quyền
hạn: (1) Yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, đơn vị, người
có thẩm quyền báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; về xử lý
một số vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực. (2) Yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức
đảng lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, thanh tra, điều tra, xử lý các vụ án, vụ
việc; chỉ đạo xem xét lại việc kiểm tra, thanh tra, điều tra, xử lý các vụ án, vụ
việc. (3) Yêu cầu các cơ quan chức năng kết luận, xử lý các vụ án, vụ việc tham
nhũng, tiêu cực. Trực tiếp chỉ đạo về chủ trương xử lý đối với một số vụ án, vụ
việc cụ thể hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền xem xét lại
việc giải quyết hoặc giải quyết lại. (4) Kiến nghị hoặc yêu cầu các cơ quan có
thẩm quyền xử lý cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có hành vi tham nhũng,
tiêu cực hoặc có hành vi cản trở, gây khó khăn đối với hoạt động phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực. (5) Yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan chức năng
nếu phát hiện vi phạm liên quan đến cán bộ thuộc diện cấp uỷ các cấp quản lý
thì phải kịp thời báo cáo cho Ban Chỉ đạo cấp tỉnh để chỉ đạo xử lý hoặc báo
cáo Ban Chỉ đạo Trung ương; nếu phát hiện sai phạm có dấu hiệu tội phạm thì
chuyển cơ quan điều tra để xử lý theo thẩm quyền, không chờ đến khi kết thúc
mới chuyển. (6) Trực tiếp làm việc với cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, đơn
vị và cá nhân có liên quan; được sử dụng bộ máy tổ chức, cán bộ, công chức, viên
chức và phương tiện của các cơ quan, tổ chức có liên quan để phục vụ nhiệm vụ
của Ban Chỉ đạo.
4. Tổ chức bộ
máy
- Trưởng ban là đồng chí Bí thư tỉnh uỷ,
thành uỷ.
- Các Phó Trưởng
ban gồm: (1) Phó Bí thư thường trực
tỉnh uỷ, thành uỷ. (2) Trưởng Ban Nội chính tỉnh uỷ, thành uỷ. (3) Trưởng Ban
Tổ chức tỉnh uỷ, thành uỷ. (4) Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra tỉnh uỷ, thành uỷ. (5)
Giám đốc Công an tỉnh, thành phố. Trưởng Ban Nội chính tỉnh uỷ, thành uỷ là Phó
Trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo.
- Các Uỷ viên là lãnh
đạo các cơ quan chức năng có liên quan của tỉnh, thành phố, gồm: (1) Trưởng Ban Tuyên giáo. (2) Chánh Văn phòng tỉnh uỷ, thành
uỷ. (3) Chánh án Toà án nhân dân. (4) Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân. (5)
Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Tư lệnh Bộ
Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh. (6) Giám đốc Sở Tư pháp. (7) Chánh Thanh tra. (8)
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. (9) Phó Trưởng Ban Nội chính.
- Thường trực
Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, gồm: Trưởng ban và các Phó Trưởng ban. Ban Nội chính tỉnh uỷ, thành uỷ làm nhiệm vụ Cơ quan
Thường trực của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh.
Ngoài các
thành phần, cơ cấu nêu trên, trường hợp thật cần thiết phải điều chỉnh về cơ
cấu các thành viên Ban Chỉ đạo cấp tỉnh thì Ban Thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ báo
cáo, xin ý kiến của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương trước khi quyết định.
5. Chế độ
làm việc: Ban Chỉ đạo cấp tỉnh làm việc theo chương
trình hằng năm, họp thường kỳ 6 tháng một lần hoặc đột xuất khi cần; khi cần
thiết, tổ chức hội nghị của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc hội nghị
chuyên đề về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với các cấp uỷ, tổ chức
đảng trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ. Thường trực Ban Chỉ đạo cấp tỉnh họp thường
kỳ 3 tháng một lần, họp đột xuất khi cần.
6. Quan hệ công tác: Ban Chỉ đạo cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm
tra, giám sát của Ban Chỉ đạo Trung ương; chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn
diện của Ban Thường vụ tỉnh uỷ, thành uỷ trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn được giao.
VII- Theo Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban
Bí thư khoá XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xem xét và thống nhất cao với Báo cáo những công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương 4 đến Hội nghị
Trung ương 5 và một số nhiệm vụ trọng
tâm từ Hội nghị Trung ương 5 đến Hội nghị Trung ương 6 khoá XIII; Báo
cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng năm 2021; phương
hướng, nhiệm vụ năm 2022.
*
* *
Ban Chấp
hành Trung ương Đảng kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tăng cường đoàn kết,
thống nhất, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện có hiệu
quả các nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2022 và mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng đề ra.
____________________