Đồng chí LÊ ĐỨC THỌ người chiến sĩ Cộng sản kiên cường, nhà Cách mạng tài năng của Đảng
Đồng chí Lê Đức Thọ tên chính
là Phan Đình Khải, sinh ngày 10-10-1911 tại xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc (nay là xã
Nam Vân, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Với lòng yêu nước, thương dân và
hoài bão tuổi trẻ, đồng chí Lê Đức Thọ đã sớm dấn thân trên con đường cách mạng
vinh quang và gian khổ. Năm 1925, khi mới 14 tuổi đồng chí đã tích cực hoạt
động trong phong trào học sinh yêu nước. Năm 1926, tham gia các hoạt động bãi
khóa, dự lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh. Năm 1928, khi 17 tuổi
đồng chí được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Được hoạt động và
rèn luyện trong tổ chức cách mạng, năm 1929, tròn 18 tuổi, đồng chí được vinh
dự kết nạp vào Đông Dương cộng sản Đảng, làm Bí thư Chi bộ học sinh và phụ
trách công tác thanh niên học sinh, đồng chí thuộc lớp những đảng viên Cộng sản
đầu tiên của Đảng ta.
Tháng 11 năm 1930, đồng chí bị
thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm khổ sai và bị đầy đi nhà tù Côn Đảo, làm Bí
thư chi bộ và Thường vụ Chi ủy nhà tù. Năm 1936, trước sức đấu tranh mạnh mẽ
của dân ta và phong trào Bình dân ở Pháp, thực dân Pháp ở Đông Dương phải trả
tự do cho một số tù chính trị, trong đó có đồng chí Lê Đức Thọ. Ra tù, trở về
quê hương, trong những năm 1936-1939, đồng chí tiếp tục xây dựng cơ sở bí mật
của Đảng và phụ trách công tác báo chí công khai của Đảng bộ. Từ năm 1939 –
1944 bị địch bắt và bị kết án 5 năm tại các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Sơn La và
Hòa Bình.
Tháng 9 năm 1944, đồng chí được
Trung ương giao phụ trách công tác tổ chức và huấn luyện cán bộ ở khu An toàn
của Trung ương. Tháng 10-1944, được chỉ định là Ủy viên Trung ương Đảng trực
tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ. Tháng 8-1945, tại Hội nghị toàn quốc của Đảng ở
Tân Trào, được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Đồng chí đã tham dự Hội
nghị mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng đêm ngày 9-3-1945, đề ra chủ trương
phát động cao trào cách mạng tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa, đồng chí cũng tham
dự Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng tháng 12-1946, quyết định toàn quốc
kháng chiến.
Năm 1948, đồng chí thay mặt
Trung ương Đảng tham gia đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ vào miền Nam
công tác. Năm 1949, đồng chí được chỉ định làm Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Năm
1951, tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp
hành Trung ương, được giao làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Từ năm 1949
đến năm 1954, làm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam.
Năm 1955, đồng chí tập kết ra
Bắc, làm Trưởng ban Thống nhất Trung ương. Cuối năm 1955 được bổ sung vào Bộ
Chính trị BCHTW Đảng phụ trách công tác sửa sai trong cuộc vận động cải cách
ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Cuối năm 1956, làm Trưởng Ban Tổ chức Trung
ương. Từ tháng 11-1956 đến năm 1961 kiêm chức Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc
Trung ương. Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức TW. Năm 1966, kiêm
hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Năm 1967, được cử vào Quân ủy
Trung ương. Đầu năm 1968, được Bộ Chính trị cử vào miền Nam làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam.
Tháng 5-1968, được Bộ Chính trị giao nhiệm vụ phụ trách công tác đấu tranh
ngoại giao, làm cố vấn đặc biệt của Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam DCCH tại
Hội nghị Pari. Sau hiệp định Pari và Việt Nam
(năm 1973), được cử làm Trưởng ban miền Nam của Trung ương. Năm 1975, được
Bộ Chính trị cử vào miền Nam phổ biến nghị quyết về cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân
và cùng với một số đồng chí lãnh đạo khác thay mặt Bộ Chính trị chỉ đạo chiến
dịch Hồ Chí Minh. Tháng 12-1976, tại Đại hội lần thứ IV của Đảng, được bầu vào
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư làm Trưởng Ban Tổ
chức Trung ương Đảng.
Sau giải phóng miền Nam (30/4/1975) đồng chí làm Phó ban đại diện
Đảng và Chính phủ ở miền Nam.
Năm 1977 đến tháng 1-1979 được
Bộ Chính trị phân công phụ trách công tác đặc biệt. Năm 1980, được cử làm Bí
thư thường trực, phụ trách công tác tổ chức; tháng 10-1980 kiêm chức Hiệu
trưởng Trường Chính trị đặc biệt.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ V
của Đảng (tháng 3-1982), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư, làm Bí thư thường trực, phụ trách công tác tư
tưởng nội chính, ngoại giao. Năm 1983 được chỉ định làm Phó Chủ tịch Ủy ban
Quốc phòng. Năm 1986, làm Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội lần thứ VI của Đảng.
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (tháng 12-1986), được Đại hội cử làm Cố vấn của Ban Chấp hành Trung
ương.
Trong quá trình hoạt động cách
mạng qua các thời kỳ với nhiều cương vị công tác và nhiều địa bàn hoạt động
khác nhau, đồng chí Lê Đức Thọ đã đem hết tâm sức, khả năng, trí tuệ phục vụ sự
nghiệp Cách mạng của Đảng; là một nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm, có tài năng về
nhiều mặt và nổi bật trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao. Đồng chí
thường được Đảng, Bác Hồ giao những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, điều đến
những nơi, những lúc và ở những khâu công tác có tính quyết định của cách mạng.
Đồng chí đã có những đóng góp
rất quan trọng và là một trong những đồng chí lãnh đạo chủ yếu của cuộc Cách
mạng Tháng Tám lịch sử. Cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo công tác chuẩn bị và
tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Đồng chí Lê Đức Thọ là một
trong những đồng chí lãnh đạo chủ yếu của cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, người có
công lao lớn trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng chí
Lê Đức Thọ là người có những đóng góp quan trọng trong công tác tổ chức xây dựng
Đảng, thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
khẳng định: Đồng chí Lê Đức Thọ đã là tấm gương sáng ngời về lòng trung thành
tận tụy với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, là một trong những người học trò
xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; nhà lãnh đạo tài năng, giàu kinh
nghiệm của Đảng và Nhà nước ta, có nhiều cống hiến lớn đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc; người cộng sản mẫu mực với tinh thần cách mạng, tiến
công kiên cường, bất khuất. lạc quan, đức tính cần kiệm, liêm chính và tình
thương yêu đồng chí. Đồng chí Lê Đức Thọ được toàn Đảng, toàn dân và bạn bè
quốc tế thương yêu và kính trọng. Đồng chí đã được Đảng và Nhà nước ta tặng
thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều Huân chương, danh hiệu vinh dự cao quý
khác. Đảng và Nhà nước Liên Xô tặng Huân chương Cách mạng Tháng Mười. Đảng và
Nhà nước Cămpuchia tặng Huân chương Ăngco./.
Trung tâm TT.TC
Tuyên giáo