Tài liệu chuyên đề định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
CV 1300 tai lieu b.Tô Lâm.doc
PL2 kem theo CV 1300 (1).docx
TÀI LIỆU SINH HOẠT CHÍNH TRỊ PHỤC VỤ CÔNG
TÁC
NGHIÊN CỨU, QUÁN TRIỆT, TRUYÊN TRUYỀN
“KỶ NGUYÊN MỚI - KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA
DÂN TỘC”
(Tài
liệu ban hành kèm theo Công văn số 1300-CV/BTGTU
ngày 05/02/2025 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
-----
I. KHÁI NIỆM, CƠ SỞ
ĐỊNH VỊ MỤC TIÊU CỦA KỶ NGUYÊN MỚI - KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
1. Khái niệm
1.1. Kỷ nguyên: là một giai đoạn lịch sử được đánh
dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
của xã hội - văn hóa chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để
phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi
căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Ví dụ: Kỷ
nguyên công nghiệp, Kỷ nguyên thông tin, Kỷ nguyên kỹ thuật số, Kỷ nguyên vũ trụ.
Còn trước đây là Kỷ nguyên đồ đá, Kỷ nguyên cổ đại, Kỷ nguyên trung cổ...
1.2. Kỷ nguyên mới: thường được dùng để
chỉ một giai đoạn mới với những tiến bộ, đổi
mới, hoặc thay đổi đáng kể trong nhiều lĩnh vực như công nghệ, xã hội, kinh tế
hay chính trị, mang lại sự thay đổi lớn trong cách con người sống và làm việc.
Ví dụ, thời đại số hóa hay kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo được xem là những kỷ
nguyên mới với những đổi mới mạnh mẽ trong công nghệ và cách thức con người
giao tiếp, làm việc. Kỷ nguyên mới là khoảng thời gian sắp tới, cần thiết cho
việc thực hiện các mục tiêu mới, lớn lao; thường bắt đầu từ những cột mốc có
tính bước ngoặt là một chặng đường phát triển, gắn với những nỗ lực cho các mục
tiêu mới.
1.3. Kỷ nguyên vươn mình: hàm ý tạo sự chuyển
động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt
qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt
được những thành tựu vĩ đại.
1.4. Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt
Nam:
là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi
người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu;
đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh
phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
2. Nội hàm
Đồng
chí Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động
mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua
thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được
những thành tựu vĩ đại. Dân tộc Việt Nam đã hội tụ, tích tụ những giá trị nguồn
động lực mạnh mẽ cho bước chuyển mình lớn lao - Kỷ nguyên vươn mình. Lịch sử
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã tạo nên và củng cố,
giữ gìn cơ đồ giang sơn gấm vóc; hun đúc nên đất nước Việt Nam anh hùng và con người
Việt Nam anh hùng, quả cảm, cần cù và sáng tạo, giàu giá trị văn hoá, nhân văn.
Kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đất nước đã giành lại
và củng cố vững chắc nền độc lập; tạo dựng nền hoà bình và thống nhất với những
thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Công cuộc đổi mới với những
thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử; đưa đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày nay; một khí thế mới, đầy khát vọng phát triển
nhanh và bền vững. Khởi điểm của kỷ nguyên vươn mình hội tụ những giá trị của
dân tộc và thời đại; của truyền thống và đương đại; của vật chất và tinh thần;
của thực lực, nội lực và khát vọng. Đổi mới là thời kỳ khởi động, tích luỹ năng
lượng và chạy đà để dân tộc vươn mình phát triển. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
kế thừa thành quả công cuộc đổi mới và sẽ nâng tầm công cuộc đổi mới và phát
triển của đất nước ta.
2.1. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước
mạnh, xã hội Xã hội chủ nghĩa, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các
cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi
các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển,
có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước
xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc,
tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển
đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
2.2. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của
Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận
lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt
phá và cất cánh.
Trên
thực tế, rất nhiều nội dung, lĩnh vực đang chuyển động mạnh mẽ; nhiều việc
không chờ đợi đến Đại hội XIV của Đảng mới bắt đầu.
3. Cơ sở định vị mục
tiêu đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
-
Những thành tựu vĩ đại đạt được sau gần 80 năm lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và 40 năm đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển
bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp,
bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu,
nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò
tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo
đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam
trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, 20 nền kinh tế hàng đầu về
thương mại và trong nhóm 15 nước thu hút đầu tư nước ngoài nhiều nhất; có quan
hệ ngoại giao với 194 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ
đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường
quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ
hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên Kỷ của Liên
hợp Quốc. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ,
quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì
hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Thế
giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai
đoạn rất quan trọng để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội
chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục
tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục
tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ,
thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi
trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay
đổi đột biến của cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là
trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển,
chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.
Lịch
sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng,
khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh
toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam đã đạt được
những kỳ tích (kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến
thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận
thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là
thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường
quốc năm châu.
Từ
những vấn đề trên, có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế,
sức mạnh để đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc,
tiếp sau Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và Kỷ nguyên đổi mới.
II. VẬN HỘI VÀ SỨ
MỆNH LỊCH SỬ KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH CỦA DÂN TỘC
1. Vận hội
Gần
95 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, nhìn tổng quát, dân tộc Việt Nam đã trải qua hai kỷ
nguyên vẻ vang. Kỷ nguyên thứ nhất là Kỷ
nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1930-1975), khởi đầu từ
năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, dẫn đến thắng lợi vĩ đại của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và những chiến công vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống
xâm lược (1946-1975) cùng những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những năm 1954-1975. Kỷ nguyên thứ hai là Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới, phát triển (1975-2025), mở đầu bằng thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội năm 1975, tạo tiền đề vững chắc để đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, tiến hành công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng năm
1986, tạo bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên các lĩnh vực. Và bây giờ, Việt
Nam bước vào Kỷ nguyên thứ ba, Kỷ nguyên
vươn mình của dân tộc mà thời điểm mở
đầu là Đại hội lần thứ XIV của Đảng, ghi dấu ấn 40 năm đổi mới (1986-2026).
Mỗi
kỷ nguyên đều xuất hiện một cách khách quan những yêu cầu lịch sử đòi hỏi quốc
gia, dân tộc phải đáp ứng tốt nhất để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược
đã xác định.
Trong
Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ
nghĩa xã hội (1930-1975), mục tiêu sống còn của Việt Nam là phải xóa bỏ chế
độ áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, trở thành một quốc gia độc lập, tiến
lên xây dựng chế độ xã hội mới. Mục tiêu chiến lược đó đặt ra yêu cầu phải tập
hợp rộng rãi nhất, phát huy mạnh mẽ nhất sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
kết hợp với sức mạnh của thời đại, đập tan ách thống trị của đế quốc, phong kiến,
giành và giữ độc lập, tự do; xây dựng những tiền đề ban đầu của chủ nghĩa xã hội.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, dân tộc Việt Nam đã phát huy cao độ chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giải quyết thành công yêu cầu lịch
sử và hoàn thành xuất sắc mục tiêu chiến lược.
Trong
Kỷ nguyên thống nhất, đổi mới, phát triển
(1975-2025), mục tiêu hàng đầu của Việt Nam là phải chiến thắng đói nghèo,
lạc hậu, thoát ra khỏi tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, nâng cao đời
sống của Nhân dân, xác lập vị thế quốc tế xứng đáng. Mục tiêu chiến lược đó đặt
ra yêu cầu lịch sử phải đổi mới toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực của đời sống xã
hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập quốc tế.
Sau gần 50 năm đất nước thống nhất, 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt
Nam đã thực hiện thắng lợi các yêu cầu lịch sử, đổi mới thành công, thoát khỏi
tình trạng một nước nghèo, kém phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới, cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế
mới.
Chính
những thành tựu lịch sử đạt được qua hai Kỷ nguyên đấu tranh, lao động sáng tạo
bền bỉ đã tạo tiền đề, nền tảng vững chắc để Việt Nam bước vào Kỷ nguyên thứ
ba: Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc,
khởi đầu từ Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Đây là “Kỷ nguyên phát triển, Kỷ
nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của Kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh,
xã hội xã hội chủ nghĩa, dân chủ, công bằng, văn minh sánh vai với các cường quốc
năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong Kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục
tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công
nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ
nghĩa phát triển, có thu nhập cao”.
Mục tiêu của Kỷ nguyên thứ ba là sự tích hợp ở tầm cao mới, trình độ mới những
mục tiêu của hai Kỷ nguyên trước, phản ánh sự phát triển về chất của mục tiêu độc
lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội, của sự vận động biện chứng Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc. Kỷ nguyên mới đặt ra những yêu cầu lịch sử đặc biệt, đòi hỏi toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân cần nhận thức sâu sắc, quyết tâm, quyết liệt hành động để
hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
2. Sứ mệnh lịch sử
Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Đột phá, phát triển tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đưa quốc gia, dân tộc lên một tầm cao mới, tiến cùng thời
đại
Yêu
cầu bao trùm trong kiến tạo kỷ nguyên mới là phải tiến hành đồng thời, thắng lợi
một quá trình “đột phá kép”. Một mặt, phải đột phá đi thẳng vào hiện đại, vào
những lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ số, mà Việt Nam có lợi thế;
xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại trên nền tảng chính phủ số, xã hội số,
công dân số, tạo sự phát triển vượt bậc về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại. Mặt khác, phải đột phá trong việc giải quyết triệt để
những điểm nghẽn, những yếu kém, hạn chế, những khó khăn đang kìm hãm, cản trở
sự phát triển của đất nước. Hai quá trình đột phá này cần phải được tiến hành song
song, đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau, trong đó đi tắt, đón đầu, đi thẳng vào hiện đại
là cơ bản, có ý nghĩa quyết định; khắc phục, giải quyết những yếu kém, bất cập
là cấp bách, quan trọng. Triết lý của quá trình đột phá kép này, như đồng chí Tổng
Bí thư Tô Lâm xác định, chính là “tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi
nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất
cánh”.
Triết lý chính trị khoa học này được Đảng ta đúc kết từ bài học kinh nghiệm quý
báu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và vận dụng thành công trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam - bài học chủ động tạo thời cơ, nhận thức
đúng thời cơ, kiên quyết chớp thời cơ; đánh giá đúng nguy cơ, kiên quyết đẩy
lùi nguy cơ, thách thức, chuyển hóa nguy cơ thành thời cơ, giành thắng lợi. Kỷ
nguyên mới yêu cầu Đảng ta tiếp tục vận dụng, phát triển sáng tạo hơn nữa, hiệu
quả hơn nữa bài học kinh nghiệm quý giá này để tạo sự phát triển đột phá của đất
nước.
Đột phá về tư duy, nhận thức
Bước
vào Kỷ nguyên thống nhất, đổi mới, phát
triển (1975-2025), Đảng ta bắt đầu bằng đổi mới tư duy, nhận thức lại một
cách đúng đắn hơn, khoa học hơn quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đột phá lý luận về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa với những nhận thức rất mới mẻ mà trước đổi mới còn hoàn
toàn xa lạ. Chính đột phá tư duy lý luận đã khai mở con đường đổi mới trên tất
cả các lĩnh vực, tạo ra những thành tựu vĩ đại. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
diễn ra song hành với kỷ nguyên số, kỷ nguyên của đổi mới sáng tạo mà tiếng nói
chung của nhân loại là “không có gì là không thể”. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư và các cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo đang và sẽ làm đảo lộn
phương cách suy nghĩ, sản xuất, sinh hoạt của các quốc gia, cộng đồng và của mỗi
con người. Một lần nữa, thực tiễn lại đòi hỏi và tạo điều kiện để chúng ta đổi
mới mạnh mẽ về tư duy, nhận thức. Trên cơ sở kế thừa những tư duy khoa học đã
tích lũy được qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, chúng ta cần cởi mở, chăm
chú, mạnh dạn tiếp thu những tư duy mới, những xu hướng phát triển mới của nhân
loại với phương châm tiến kịp, tiến cùng thời đại. Cần có những đột phá lý luận
với cách tiếp cận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; về lộ trình và bước đi; về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa phù hợp với cuộc cách mạng số, kỷ nguyên số; về hạ tầng cơ sở và
thượng tầng kiến trúc trong kỷ nguyên mới...; trên cơ sở đó, đột phá trong định
hướng phát triển các lĩnh vực quan trọng của đất nước, đặc biệt là phát triển đột
phá về khoa học - công nghệ, về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút,
phát huy nhân tài; về phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam; về quản
trị quốc gia; về hiện đại hóa quốc phòng, an ninh, nâng tầm đối ngoại, ngoại
giao... Chúng ta kiên định nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng trên tinh thần không ngừng sáng
tạo; không chủ quan, duy ý chí, nhưng kiên quyết không để chủ nghĩa giáo điều,
bảo thủ kìm trói tư duy, nhận thức của chúng ta. “Chúng ta cần tiếp thu, bổ
sung theo tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu phát triển mới về tư
tưởng và khoa học để chủ nghĩa của chúng ta, học thuyết của chúng ta luôn luôn
tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại,
không rơi vào xơ cứng, trì
trệ, lạc hậu so với cuộc sống”.
Đây thực sự là một cuộc cách mạng - cuộc cách mạng theo chân lý Hồ Chí Minh:
cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân là chân lý.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thống nhất nhận thức, quyết tâm đổi mới tư duy,
lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, chúng ta nhất định sẽ tạo ra bước phát
triển chưa từng có của dân tộc ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đột phá trong huy động, sử dụng tối ưu các nguồn lực
còn rất tiềm tàng của đất nước
Việt Nam ta tài nguyên phong phú, các nguồn lực
trong dân còn rất dồi dào, các nguồn lực từ bên ngoài theo các dòng đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam theo chính sách đối ngoại, hội nhập đúng đắn của Đảng, Nhà
nước ta rất lớn; nhân dân Việt Nam cần cù, sáng tạo; con người Việt Nam yêu nước,
thông minh; nguồn lực vô hình tiềm ẩn trong lợi thế địa chính trị, địa kinh tế
của đất nước là vô giá. Chính những nguồn lực to lớn này góp phần quan trọng tạo
nên thành tựu vĩ đại của công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn chỉ
ra rằng, về vấn đề này, chúng ta còn nhiều khuyết điểm, bất cập. Do những hạn
chế của hệ thống thể chế; năng lực lãnh đạo, quản lý và phẩm chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên; nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận nhân dân..., nhiều nguồn
lực của đất nước còn bị thất thoát, phí phạm, sử dụng kém hiệu quả; năng lực,
trí tuệ của con người Việt Nam chưa được khởi phát đúng tầm; lợi thế của đất nước
chưa được phát huy tương xứng. Kỷ nguyên mới đòi hỏi phải tạo chuyển biến căn bản
về nhận thức, hành động của toàn Đảng, toàn xã hội trong việc giữ gìn, nuôi dưỡng,
sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực của đất nước. Từng đồng tiền, bát gạo; từng
mét vuông đất, rừng, ngư trường, biên cương; từng vỉa quặng; từng giờ, từng
ngày lao động và khả năng của mỗi con người... cần phải được quý trọng, bồi đắp,
khai phóng để tạo thành của cải vật chất. Tiết kiệm, chống lãng phí, thất
thoát, cần kiệm xây dựng đất nước phải trở thành quốc sách; thành nhiệm vụ
chính trị của các tổ chức đảng, hệ thống chính trị; thành ý thức, tình cảm, việc
làm tự giác của mỗi người Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Phát huy đến mức cao nhất các động lực phát triển đất
nước, đặc biệt là tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự
cường, khát vọng sáng tạo và cống hiến của toàn thể Nhân dân
Thực
tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam gần 95 năm qua đã chứng minh hùng hồn, trong những
bước phát triển nhảy vọt của cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết,
tinh thần đấu tranh, lao động, sáng tạo của Nhân dân, của con người Việt Nam là
nguồn gốc của mọi thắng lợi. Kỷ nguyên mới với những mục tiêu lịch sử đòi hỏi
khách quan phải phát huy đến mức cao nhất tinh thần, ý chí, sức mạnh của Nhân
dân - chủ thể đóng vai trò trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới. Cần
chuyển hóa chủ trương, quyết sách, ý chí của Đảng thành nhận thức, thành cảm hứng
hành động, sáng tạo của toàn dân, của mỗi người Việt Nam, khởi nguồn từ việc củng
cố, bồi đắp niềm tin của Nhân dân theo nguyên lý: có niềm tin của Nhân dân là
có tất cả; mất niềm tin của Nhân dân là mất tất cả. Niềm tin của Nhân dân được
bồi đắp, nhân lên từ nhận thức đúng đắn về con đường phát triển của dân tộc do
Đảng dẫn đường, chỉ lối; từ sự tôn trọng của Đảng, hệ thống chính trị đối với
vai trò làm chủ, quyền làm chủ thật sự của Nhân dân; từ những thành quả thực tiễn
của đất nước đem lại những lợi ích thiết thực có thể đo đếm được cho mỗi gia
đình, mỗi con người Việt Nam; từ những tấm gương trong sạch, trong sáng, tận tụy
phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nguyên lý: Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ; mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đều phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của Nhân dân; cần lấy hạnh
phúc, sự hài lòng của Nhân dân làm tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên... mà Đại
hội lần thứ XIII của Đảng đã đúc kết cần phải tiếp tục được thể chế hóa, cụ thể
hóa và thực thi nghiêm túc trong thực tiễn.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng
Đảng thật sự là đạo đức, văn minh, thật sự tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và
lương tâm của dân tộc, của thời đại
Sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam là chân lý được đúc kết qua lịch sử vẻ vang gần một thế kỷ của Đảng, của
dân tộc ta. Là người khởi xướng, lãnh đạo công cuộc kiến tạo kỷ nguyên mới, Đảng
ta gánh trên vai sứ mệnh vinh quang, trọng trách nặng nề. Nhân dân đặt niềm tin
và kỳ vọng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện: Bản lĩnh về chính trị,
thống nhất về tư tưởng, cao về văn hóa, đẹp về đạo đức, khoa học về tổ chức,
tiêu biểu về cán bộ, xứng đáng là người cầm lái vĩ đại đưa dân tộc đi đến phồn
vinh, hạnh phúc. Nhân dân mong muốn và hy vọng cán bộ, đảng viên, nhất là người
đứng đầu, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược, thực sự có đức, có tài, biết lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ, có năng lực thiết kế, truyền cảm hứng và làm gương
để nhân dân noi theo trên cuộc hành trình dựng xây kỷ nguyên mới. Sẽ có rất nhiều
việc phải làm, phải làm quyết liệt nhưng vững chắc để có được một hệ thống tổ
chức bộ máy của Đảng, của hệ thống chính trị tinh gọn, thống nhất, hợp lý, đồng
bộ, thông suốt, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc kết nối - tương
tác - chia sẻ, có khả năng thích ứng cao với thời cuộc luôn thay đổi; để có được
một đội ngũ cán bộ, đảng viên liêm khiết, mẫu mực, tiêu biểu hết lòng vì Đảng,
vì Dân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY NAM ĐỊNH